Từ 1/7/2009: Nhiều chính sách mới bắt đầu có hiệu lực
Luật Quốc tịch Việt Nam
Luật
Quốc tịch Việt Nam tiếp tục khẳng định nguyên tắc 1 quốc tịch; những
trường hợp ngoại lệ có thể đồng thời có quốc tịch nước ngoài như: xin
nhập quốc tịch Việt Nam, xin trở lại quốc tịch Việt Nam… phải Chủ tịch
nước cho phép
Luật
quy định rõ người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch
Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật có hiệu
lực thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam và trong thời hạn 5 năm kể từ ngày
Luật có hiệu lực, phải đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước nơi
người đó định cư để giữ quốc tịch Việt Nam.
Pháp lệnh án phí, lệ phí tòa án
Pháp
lệnh án phí, lệ phí tòa án quy định về các loại án phí, lệ phí tòa án
đối với người bị kết án, đương sự trong các vụ án hình sự, dân sự, hành
chính; mức án phí, lệ phí tòa án; nguyên tắc thu, nộp; điều kiện, thủ
tục miễn; những trường hợp không phải nộp tiền tạm ứng án phí, tiền tạm
ứng lệ phí, án phí, lệ phí tòa án; nghĩa vụ nộp án phí, lệ phí tòa án;
cơ quan có thẩm quyền thu; xử lý tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ
phí, án phí, lệ phí tòa án; giải quyết khiếu nại về án phí, lệ phí tòa
án
Luật Giao thông đường bộ
So
với Luật năm 2001, Luật Giao thông đường bộ ( sửa đổi) bổ sung một số
quy định cụ thể về độ tuổi trẻ em được chở thêm trên xe môtô, xe gắn
máy và xe đạp; bắt buộc đội mũ bảo hiểm đối với người điều khiển, người
ngồi trên xe môtô, xe gắn máy, xe đạp máy; trách nhiệm của chính quyền
địa phương nơi xảy ra tai nạn giao thông... nhằm phù hợp với tình hình
phát triển của xã hội, đảm bảo ATGT.
Luật
Giao thông đường bộ quy định chặt chẽ điều kiện kinh doanh vận tải bằng
ôtô, đặc biệt quy định việc gắn thiết bị giám sát hành trình của phương
tiện kinh doanh vận tải; bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của
người kinh doanh vận tải, người lái xe và nhân viên phục vụ trên ôtô
vận tải hành khách, hành khách, người thuê vận tải, người nhận hàng...
Luật Thi hành án dân sự
Cơ
bản kế thừa các quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004,
Luật Thi hành án dân sự bổ sung nhiều quy định mới như: Chấp hành viên
có 3 ngạch (sơ cấp, trung cấp, cao cấp); việc bổ nhiệm Chấp hành viên
phải thông qua thi tuyển; bỏ quy định hiện hành về việc bổ nhiệm Chấp
hành viên theo nhiệm kỳ.
Thời
hiệu yêu cầu thi hành án dân sự được nâng lên 5 năm (thay vì 3 năm như
trước) để đảm bảo quyền lợi của đương sự. Luật Thi hành án dân sự quy
định theo hướng phân biệt rõ điều kiện để miễn và điều kiện để giảm thi
hành án.
Luật Bảo hiểm y tế
Luật
quy định cụ thể 24 nhóm đối tượng tham gia BHYT và một nhóm đối tượng
khác để Chính phủ tùy tình hình cụ thể quy định thêm nhóm đối tượng
tham gia BHYT.
Trong
số 24 nhóm đối tượng được xác định cụ thể, 11 đối tượng được cấp thẻ
BHYT từ nguồn ngân sách nhà nước bảo đảm (trẻ em dưới 6 tuổi, người có
công với cách mạng, cựu chiến binh, bảo trợ xã hội, người nghèo, người
cao tuổi...).
Luật
xác định mức trần đóng bảo hiểm y tế là 6% và giao Chính phủ căn cứ vào
tình hình KT-XH của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể để quy định
mức đóng, hỗ trợ đối với từng nhóm đối tượng.
Luật cũng quy định rõ 14 trường hợp không được hưởng bảo hiểm y tế (điều 23 và 24).
Nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia BHYT trong việc lựa chọn cơ
sở khám, chữa bệnh phù hợp với điều kiện lưu trú, làm việc, Luật quy
định: Người tham gia BHYT có quyền đăng ký khám, chữa bệnh BHYT ban đầu
tại cơ sở khám, chữa bệnh tuyến xã, tuyến huyện hoặc tương đương; trừ
trường hợp được đăng ký tại cơ sở khám chữa bệnh tuyến tỉnh hoặc tuyến
Trung ương theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế.
Luật Đa dạng sinh học
Luật
Đa dạng sinh học thể chế hóa các chủ trương của Đảng, đảm bảo thống
nhất quản lý nhà nước về bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh
học trên cơ sở phân công, phân cấp rõ ràng, hợp lý giữa các cơ quan
Trung ương, giữa Trung ương và địa phương.
Luật
Đa dạng sinh học được xây dựng trên nguyên tắc quan tâm đến lợi ích của
các bên liên quan trong bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học
trên cơ sở công bằng và bình đẳng trước pháp luật. Công tác bảo tồn và
phát triển bền vững đa dạng sinh học thực hiện theo hướng thúc đẩy và
hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo.
Luật Công nghệ cao
Luật
Công nghệ cao đã thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng, tạo cơ sở
pháp lý hoàn chỉnh, vững chắc và thông thoáng cho hoạt động ứng dụng và
phát triển công nghệ cao, đặc biệt là chính sách coi đẩy mạnh ứng dụng
và phát triển công nghệ cao là giải pháp đặc biệt có tính đột phá nhanh
chóng nâng cao năng suất, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, đảm bảo khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp, các ngành kinh tế - kỹ thuật và của nền kinh tế nước ta.
Luật
Công nghệ cao tạo bước thống nhất việc điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong lĩnh vực công nghệ cao, tạo bước đột phá trong ứng dụng, nghiên
cứu và phát triển công nghệ cao phục vụ cho yêu cầu của sự nghiệp
CNH-HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước trong giai đoạn hiện
nay.
Theo Kinh tế&Đô thị