Phía sau “vầng hào quang” về thu hút FDI vẫn còn những câu hỏi (ảnh minh hoạ).
Nhưng
thực tế, tình hình FDI vẫn trong ranh giới rất mỏng manh của lạc quan
và bi quan khi phía sau “vầng hào quang” về thu hút vốn vẫn còn là
những câu hỏi còn bỏ ngỏ.
Lạc quan
Năm
2009 theo dự kiến lượng FDI thu hút được khoảng 20 tỷ USD, trong đó vốn
thực hiện dự tính là 8 tỷ USD. Con số FDI đăng ký đã giảm một cách rất
“sốc” khi chỉ bằng 22,6% so với cùng kỳ năm 2008 nhưng chính điều đó đã
tạo nên niềm hy vọng mới về việc khoảng cách giữa giải ngân và vốn đăng
ký đang được thu hẹp lại.
Giải ngân vốn ODA đạt 67% kế hoạch
năm, tăng tới 9% so với cùng kỳ năm 2008. Năm 2009, Việt Nam đặt mục
tiêu giải ngân 1,9 tỷ USD, trong đó, vốn vay là 1,6 tỷ USD và vốn viện
trợ không hoàn lại là 300 triệu USD. Nhưng chỉ trong 6 tháng đầu năm
nay, giải ngân ODA đã đạt 1,27 tỷ USD.
Tại một số địa phương, kế
hoạch giải ngân đã đạt được những kết quả đáng kinh ngạc. Như TPHCM,
chỉ mới qua nửa năm, địa phương này đã vượt kế hoạch giải ngân ODA năm
2009 tới 18%. Tại Hà Nội, tỷ lệ giải ngân ODA cũng đạt 57% kế hoạch
năm.
Tổng
hợp của Bộ KH-ĐT về tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài 6
tháng đầu năm 2009, có tới 42 địa phương không thể thu hút được dự án
FDI nào mới trong 6 tháng đầu năm.
Như
tại 10 địa phương thuộc vùng Đông Bắc, chỉ có duy nhất Bắc Giang có
thêm 3 dự án mới. Cả vùng Tây bắc và Bắc Trung Bộ cũng chỉ có duy nhất
Thừa Thiên- Huế có thêm 1 dự án mới… |
Phân
tích về niềm hy vọng này, Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ KH- ĐT)
Phan Hữu Thắng cho biết, tuy bùng nổ lượng vốn đăng ký tạo hình ảnh hấp
dẫn của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư nhưng vốn mà nền kinh tế có
khả năng hấp thụ được chỉ gần 10 tỷ USD.
Nếu gỡ bỏ yếu kém về cơ sở
hạ tầng thì cũng chỉ tăng giải ngân được từ 10 - 15%. Vì thế, để hài
hòa cho nền kinh tế, vốn đăng ký FDI chỉ nên gấp đôi vốn thực hiện và
có sự gối đầu. Cùng đó, tập trung giải ngân.
Đẩy mạnh giải
ngân sẽ giúp việc xúc tiến dự án được nhanh chóng. Ông Thắng cũng cho
biết, việc đẩy mạnh giải ngân bắt đầu được thực hiện ráo riết từ cuối
năm 2007 và năm 2008 với các đề án giải ngân cụ thể.
Bi quan
Nhiều
dự án hàng tỷ USD vẫn chỉ nằm trên giấy là đang là một nỗi buồn không
nguôi đằng sau “vầng hào quang” về tạo hình ảnh của Việt Nam trên
trường quốc tế về FDI. Như trong năm 2008, với gần 70 tỷ USD vốn FDI
nhưng chỉ có 4 tỷ USD giải ngân trong sáu tháng đầu năm 2009.
Một
thực tế khác không khỏi thất vọng về FDI là những nhà đầu tư luôn lựa
chọn các lĩnh vực ít rủi ro nhất, mang lại hiệu quả và nhanh thu hồi
vốn nhất. Như tại “đầu tàu” cả nước về FDI là TPHCM, đầu tư nước ngoài
trong sản xuất công nghiệp hiện chủ yếu vẫn là gia công lắp ráp. Nguồn
nguyên liệu còn phụ thuộc vào nước ngoài, tỷ lệ nội địa hóa thấp.
Theo
nhận xét của Chủ tịch HĐND TPHCM Phạm Phương Thảo: “Chúng ta đã biến
thị trường trong nước thành nơi chuyên đóng gói. Thực tế, nhiều nhà đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam là bởi họ nhìn thấy có thể khai thác, tận
dụng nguồn nhân công giá rẻ, nguồn tài nguyên, khoáng sản...
Chúng
ta vẫn nói là chúng ta sẽ khai thác, học tập được từ các nhà đầu tư
nước ngoài công nghệ máy móc hiện đại, kinh nghiệm quản lý... Nhưng,
kết quả mà chúng ta nhận được dường như còn rất chừng mực”.
Đã
thế, còn một thực tế đáng buồn khác đang diễn ra là một số dự án FDI
“bóp chết” các nhà sản xuất trong nước. Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam
Phạm Chí Cường đã không ít lần bầy tỏ sự đau khổ về việc “chết hết cả”
của các nhà máy thép trong nước khi ngành thép “được” đón hàng chục các
dự án quy mô hàng tỷ USD...
Bất chấp khủng hoảng, lượng FDI thu
hút được của Việt Nam vẫn luôn là một niềm lạc quan lớn. Nhưng để chấm
dứt những bi quan đang tồn tại song hành, các cơ quan chức năng cần
nghiêm túc trả lời thấu đáo các câu hỏi như tỷ lệ những ngành nghề nước
ngoài đầu tư vào nước ta như thế nào, hiệu quả đến đâu? Những được và
mất 20 năm qua trong các chính sách FDI…