Mộc bản triều Nguyễn
Tên gọi Việt Nam có trước thời Nguyễn
Về Quốc hiệu Việt Nam, đã có nhiều bài
viết và bài nghiên cứu nói về vấn đề này. Hai tiếng Việt Nam xuất hiện
từ khá sớm trong lịch sử nước ta. Ngay từ thế kỷ XIV đã có bộ sách nhan
đề "Việt Nam thế chí” do Trạng nguyên Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn "Dư
địa chí” của Nguyễn Trãi đầu thế kỷ XV cũng nhiều lần nhắc đến hai chữ
Việt Nam. Điều này còn được đề cập rõ ràng trong những tác phẩm của
Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), chẳng hạn ngay trang mở đầu
tập "Trình tiên sinh quốc ngữ” đã có câu: "Việt Nam khởi tổ xây nền”.
Trong tác phẩm "Vân đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn cũng từng nhắc đến hai
chữ Việt Nam. Người ta cũng tìm thấy hai chữ Việt Nam trên một số tấm
bia khắc từ thế kỷ XVI – XVII như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Phòng,
bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Tây, bia chùa Phúc Thành (1664) ở Bắc Ninh…
Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt
Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan” (Đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt
Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ý nghĩa, phần lớn các giả
thuyết đều cho rằng từ "Việt Nam” được kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng
tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam).
Vua Gia Long đặt Quốc hiệu Việt Nam
Mộc bản triều Nguyễn là những bản gỗ
khắc chữ Hán Nôm ngược dùng để in ra các sách được sử dụng phổ biến dưới
triều Nguyễn. Mộc bản triều Nguyễn là loại hình tài liệu đặc biệt quý
hiếm của Việt Nam và thế giới. Hiện nay chỉ còn số ít nước còn lưu giữ
được loại hình tài liệu này như: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc.
Tài liệu Mộc bản triều Nguyễn có niên
đại hơn 200 năm, có tính chân thật lịch sử. Hiện tại, Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia IV tại Đà Lạt (Lâm Đồng) đang lưu giữ 34.618 tấm, trong đó có
một số bộ sách rất có giá trị mà các nhà nghiên cứu về lịch sử, pháp
luật, địa lý Việt Nam không thể bỏ qua như: "Đại Nam thực lục” (biên
soạn trong 88 năm, từ 1821 đến 1909), "Hoàng Việt luật lệ” (luật Gia
Long), "Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ”, "Khâm định Việt sử thông giám
cương mục”, "Đại Nam nhất thống chí”… Mộc bản triều Nguyễn phản ánh
nhiều vấn đề và sự kiện xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn, trong đó có
sự kiện vua Gia Long đặt Quốc hiệu Việt Nam.
Tên gọi Việt Nam chính thức trở thành
quốc hiệu của nước ta vào năm 1804. Nó được xác lập bởi một văn bản pháp
lý quan trọng là Chiếu của vua Gia Long năm thứ 3 (tức năm 1804) cách
đây hơn 200 năm và được thông báo cho các nước biết. Nguyên bản gồm hai
trang chữ Hán (trang 12, 13) quyển 23 nằm trong bộ sách "Đại Nam thực
lục Chính biên đệ nhất kỷ” (ghi chép lịch sử thời vua Gia Long). Sự
kiện vị vua đầu tiên của vương triều Nguyễn đặt tên gọi đất nước là Việt
Nam được Mộc bản triều Nguyễn phản ánh như sau:
"Đế vương dựng nước, trước phải trọng
Quốc hiệu để tỏ thống nhất. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền
dấy nghiệp, mở đất Viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân
đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước. ...định lấy ngày 17 tháng 2 năm nay,
kính cáo Thái miếu, cải chính Quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn,
truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến Quốc hiệu và
thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được
quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa”. Lại hạ chiếu báo cáo với nước Xiêm
La, Lữ Tống và các thuộc quốc Chân Lạp, Vạn Tượng khiến đều biết cả.
Sau khi lên nối ngôi vua Gia Long, vua
Minh Mạng cho đổi Quốc hiệu là Đại Nam (1838), thực tế quốc hiệu Đại
Nam tồn tại 143 năm (1838 - 1945). Từ đó tên gọi Việt Nam không còn
thông dụng như trước nữa. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ
XX, hai tiếng Việt Nam được sử dụng trở lại bởi các nhà sử học và chí sĩ
yêu nước, trong các tác phẩm và tên tổ chức chính trị: Phan Bội Châu
viết "Việt Nam vong quốc sử” (1905) rồi cùng Cường Để thành lập "Việt
Nam Công hiến hội” (1908), "Việt Nam Quang phục hội” (1912); Phan Chu
Trinh viết "Pháp - Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam”; Trần Trọng Kim
viết "Việt Nam sử lược”; Nguyễn Ái Quốc thành lập "Việt Nam cách mạng
thanh niên” (1925) và "Việt Nam độc lập đồng minh hội”. Năm 1946, Hiến
pháp đầu tiên của nước VNDCCH chính thức thể chế hóa quốc hiệu này. Từ
đấy, Quốc hiệu Việt Nam được sử dụng phổ biến, với đầy đủ ý nghĩa thiêng
liêng, toàn diện nhất.
(Theo daidoanket.vn)
|