Có mặt trong lịch sử nước
Nam hơn một nửa thế kỷ, ông trở thành một trong những công thần bậc nhất
của nhà Ngô không chỉ lúc tạo lập mà cả ở thời điểm khôi phục sau thời
Dương Tam Kha, được lịch sử biết đến là một trong thập nhị sứ quân trước
thời nhà Đinh với đặc điểm nhận biết hiếm có. Ông là Đỗ Cảnh Thạc.
Mất một vành tai thuở thiếu thời. Thù nhà, nợ nước hẳn đầy vơi
Về xuất thân của vị tướng họ Đỗ, Thần phả Đỗ tướng công
và sắc phong ở đình Cổ Hiền cho hay ông có nguồn gốc từ Trung Quốc: “Đỗ
Tướng Công, huý Cảnh Thạc, sinh ngày 14 tháng giêng năm Nhâm Thân
(912). Thân phụ ngài là Đỗ Quảng Lăng, mẹ là Trần Thị Thọ thuộc Đỗ Động
Giang, Ấp Động (huyện Thanh Oai bây giờ)”. Cụ thể hơn, có thuyết cho
rằng cha Đỗ Cảnh Thạc tên là Đỗ Thục, người gốc Quảng Lăng đất Trung
Quốc. Vào thời Ngũ đại thập quốc, Đỗ Thục sang nước ta làm Tĩnh Hải quân
và sinh ra Đỗ Cảnh Thạc. Gốc gác này, sách Khâm định Việt sử thông giám
cương mục cũng chưa rõ: “Đỗ Cảnh Thạc: Người huyện Thuận Đức thuộc
Quảng Đông”.
Tương truyền vào thuở thiếu thời, cậu
bé họ Đỗ tỏ ra thông minh khỏe mạnh, năm lên 8 tuổi đã biết bày ra các
trò chơi. Năm 12 tuổi đã biết cưỡi ngựa, bắn cung, theo cha đi săn muông
thú. Năm 16 tuổi đã có chí lớn, thấy bọn quan quân nhà Nam ức hiếp dân
lành, giết người cướp của thì trong lòng căm hận, chỉ muốn tiêu diệt kẻ
thù cho bõ tức . Nhưng cũng chính vì tính khí ấy mà vị sứ quân tương lai
mới… mất một tai về tay giặc Nam Hán.
|
 |
|
Bắn cung. Nguồn tranh của Monsier Henri Oger.
|
Việc này, trong Thần phả Đỗ tướng công có chép lại
nguyên do: “Một hôm giặc vào bắt lợn của nhà, ông xông ra giằng lợn lại
bị chúng đánh đập, cáu tiết ông giằng chiếc đòn khiêng lợn đánh túi bụi,
sau vì thế cô mà bị chúng quây bắt trói lên cây và xẻo mất một bên tai.
Sau việc này, lòng căm thù sôi sục, ông quyết tìm thầy học võ”. Cứ như
trong thần phả viết, việc ấy ắt xảy ra sau thời Khúc Thừa Mỹ để nước rơi
vào tay giặc Nam Hán năm Quý Mùi (923) cho đến trước khi Dương Đình
Nghệ khôi phục năm Tân Mão (931). Cũng có thuyết khác cho hay, khi dẫn
quân đánh nhau với Nam Hán, trong lúc giao tranh, ông bị gươm của giặc
phạt mất một tai. Cũng vì mối thù không đội trời chung với giặc phương
Bắc của bản thân, lại thêm nợ nước, thù nhà chồng chất khi sau đó trong
thời gian Đỗ Cảnh Thạc tìm thầy luyện võ ba năm “giặc đã kéo đến ấp cướp
bóc đàn áp, dân ấp người chết người chạy trốn, nhà ông bị đốt cháy, cha
mẹ bị giặc giết”, đã nung nấu trong huyết quản chàng trai một tai ấy
chí lớn trả thù nhà, đền nợ nước.
Công thần nghiệp trải suốt triều Ngô. Dẹp loạn Bình Vương phục cơ đồ
Trong suốt cuộc đời làm tướng của
mình, Đỗ Cảnh Thạc dần trở thành một cánh tay đắc lực phò giúp cho nhà
Ngô lập nền tự chủ, dựng xây triều đại, được Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan
tán tụng là: “Tướng công phò suốt ba đời nhà Ngô, trải bao biến cố vẫn
giữ một lòng trung hiếu, không màng danh lợi, cống hiến cả cuộc đời cho
dân, cho nước. Thật là một tấm gương trung hiếu chói lọi cho đời sau noi
theo”.
Theo thần phả Độc nhĩ đại vương
ở vùng Thanh Oai thì ban đầu Đỗ Cảnh Thạc tìm về dưới trướng của Dương
Đình Nghệ, nhưng sau đó lại bén duyên với con rể họ Dương là Ngô Quyền
lúc ấy đang trấn thủ Ái Châu do ý hợp tâm đầu. Khâm phục tài năng và chí
khí của viên tướng họ Ngô nên ngày 15 tháng giêng năm Đinh Dậu (937),
Đỗ Cảnh Thạc đã đem theo đội quân được xây dựng từ trước về với Ngô
Quyền, tôn Ngô Quyền là Đại huynh.
Sau khi Dương Đình Nghệ chết dưới tay
của Kiều Công Tiễn, lại thêm họa Nam Hán rình rập, dẫn đến quyết định
huyết chiến nơi Bạch Đằng giang. Tương truyền, ông chính là người bàn
với Ngô Quyền dùng cọc nhọn đóng ở lòng sông để diệt giặc, lại dẫn đầu
một cánh quân cả thủy binh và bộ binh mai phục ở bên hữu ngạn sông Bạch
Đằng để tham gia tổng tấn công quân Hoằng Thao, góp phần vào đại thắng
nơi dòng sông sóng bạc đầu.
Đến năm Kỷ Hợi (939), Ngô Quyền xưng
vương, dựng nước, đóng đô, đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục,
vị tướng họ Đỗ đã được phong làm Thái uý đứng đầu các quan võ. Chỉ tiếc
rằng “ngày vui ngắn chẳng tày gang”, 5 năm sau, Ngô Vương Quyền băng hà
(Giáp Thìn (944). Trước khi về thế giới bên kia, Ngô Quyền đã chỉ định
Thái tử Ngô Xương Ngập là con cả sẽ nối ngôi, lại nhờ em vợ Dương Tam
Kha giúp rập. Nhưng nhân đó, Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, tự xưng là
Bình Vương, lại để không mang tiếng cướp ngôi, Dương Tam Kha lấy con
thứ hai của Ngô Quyền và chị mình là Xương Văn làm con mình.
|
 |
|
Lược đồ 12 sứ quân. Nguồn: DVD Tài liệu hỗ trợ dạy và học Lịch sử lớp 4, NXB Giáo dục Việt Nam.
|
Trước biến loạn của dòng họ, sợ bị lụy đến thân, Ngô Xương Ngập
chạy đến Nam Sách Giang, ẩn náu tại nhà Phạm Lệnh Công ở Trà Hương (nay
là huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương). Sợ sự tồn tại của đứa cháu gọi
mình bằng cậu sẽ làm cho các cựu thần nhà Ngô có lòng khác, Dương Tam
Kha bèn sai Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạch đem quân đi lùng Ngô Xương
Ngập. Tuy nhiên, họ Dương đã cậy sai người khi Đỗ Cảnh Thạc đã từng cùng
Ngô Quyền vào sinh ra tử bao phen, sẽ không nỡ xuống tay với chính con
ruột của chủ cũ. Thế nên việc bắt Ngô Xương Ngập không thành. Sử cũ cho
hay: “Trước sau đến ba lần đều không bắt được. Phạm Lệnh Công đem Xương
Ngập giấu vào trong động núi. Tam Kha biết tin, lại cho sục sạo, cuối
cùng vẫn không tìm thấy” (Trích Khâm định Việt sử thông giám cương mục).
Không những thế, cũng chính vì một lòng với nhà Ngô, nên về sau, Đỗ
Cảnh Thạc góp công cho cuộc trung hưng của dòng họ này ngay sau đó vài
năm.
Năm Canh Tuất (950), Bình Vương Dương
Tam Kha sai Ngô Xương Văn và cũng hai vị tướng trước đây là Dương Cát
Lợi và Đỗ Cảnh Thạc đem quân đi đánh hai thôn Thái Bình, Đường Nguyễn
(thuộc Sơn Tây). Ngô Xương Văn bấy lâu làm con nuôi hờ của Bình Vương,
vẫn nghĩ tới vương nghiệp của cha bị cướp, nhân đây bèn làm một cuộc đảo
chính. Đại Việt sử lược cho biết, khi đoàn quân của Ngô Xương Văn cùng Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc: “Đi đến Từ Liêm, Ngô Xương Văn bảo hai sứ rằng:
- Tiên vương ta, đức hợp lòng dân,
chẳng may lìa bỏ quần thần. Dương Chủ Tướng (tức Dương Tam Kha, Đại Việt
sử lược ghi rằng Chủ Tướng là tên huý của Dương Tam Kha – người dẫn) tự
ý hành động một cách bất nghĩa, tội lớn vô cùng. Nay lại sai ta đi đánh
các ấp vô tội. May mà thắng thì kẻ kia rốt cũng không phục. Vậy chúng
ta phải làm sao?
Hai sứ thưa rằng:
- Ngài dạy bảo, chúng tôi xin nghe.
Việc này trong Thiên Nam ngữ lục chép lại, cho chúng ta thấy được tấm lòng trung hiếu của Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc với cố chúa:
Xương Văn chịu lấy việt mao,
Cùng hai Dương, Đỗ bảo nhau rằng vầy:
“Tam Kha bất nghĩa chẳng hay,
Lỗi lời Tiên đế, hại rày nghiệp Ngô”.
…
Nhị sứ nghe nói như ru,
Quyết cùng như vậy còn ngờ làm chi.
Thôi bèn trở quân trẩy đi,
Trước sau trên dưới bọc vi Loa Thành.
Tam Kha bèn mới nộp mình,
Lấy thân quốc cữu nhiêu sinh chẳng hoài.
Được sự thống nhất ý kiến từ những bề tôi cũ trung thành của cha, trong
đó có Đỗ Cảnh Thạc, Ngô Xương Văn bèn đem binh mã quay trở lại Cổ Loa
lẻn đánh Bình Vương và lật đổ được y, lập lại ngôi chính thống cho dòng
họ, được sử cũ gọi là thời Hậu Ngô Vương.
Công lao trải khắp triều Ngô của vị tướng họ Đỗ, về sau được ngợi ca là:
Phạt Bắc chinh Đông, uy vũ trấn nhị triều Hán chúa,
Giáo dân hộ quốc, đức quang lưu tam thế Ngô vương
Thành hoàng ba xã mấy ai hay. Cho bà hàng nước chút lộc này
Năm Ất Sửu (965), Nam Tấn Vương Ngô
Xương Văn bị trúng tên ở hai thôn Đường và Nguyễn thuộc Thái Bình mà
chết, nhà Hậu Ngô đến đây dứt. Các sứ quân thi nhau tranh hùng, tạo nên
thời thập nhị sứ quân. Đỗ Cảnh Thạc với thanh thế của mình, bèn chiếm
giữ Đỗ Động (thuộc huyện Thanh Oai), tự xưng là Đỗ Cảnh Công, hùng cứ
một phương:
Nhật Khánh cứ đất Đường Lâm,
Cảnh Thạc làm tướng quyền cầm mạnh sao.
(Trích
Việt sử diễn âm)
Căn cứ của ông tập trung sức mạnh ở
đồn Bảo Đà và thành Quèn, trong đó thành Quèn gắn với tên tuổi vị tướng
họ Đỗ hơn cả. Về việc dựng thành, tương truyền một lần Đỗ Cảnh Thạc đi
qua trang Lạp Hạ, huyện Ninh Sơn (sau đổi là An Sơn), phủ Quốc Oai, đạo
Sơn Tây thấy ở phía Tây có một trại nhỏ là trại Quèn, núi vòng phía sau,
sông ôm phía trước. Núi sông bao bọc như thế rồng chầu hổ phục, núi
không cao mà đất bằng phẳng, nước trong xanh, nguồn mạch dồi dào. Ông
liền chọn làm nơi dựng thành. Bốn bề thành là đầm nước, lau sậy um tùm,
phải có thuyền độc mộc mới ra vào được. Thành Quèn là tên Nôm của thôn
Cổ Hiền, nay thuộc Cổ Hiền, Xã Tuyết Nghĩa, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Từ
đó, cả huyện Ninh Sơn, suốt từ trại Quèn xuống đến Thiên Phúc, Bảo Đà
thuộc Thanh Oai đều thuộc quyền ông cai quản.
Tuy nhiên, trong 12 sứ quân, sức mạnh
của Trần Lãm, hay Trần Minh Công là hơn cả, lại có Đinh Bộ Lĩnh là kẻ
kiệt hiệt, dần gộp thâu các sứ quân. Căn cứ của Đỗ Cảnh Công bị uy hiếp
dữ dội. Trải qua nhiều cuộc giao tranh, lực lượng hai bên tổn thất khá
nhiều.
Về kết cục của vị tướng Độc nhĩ, trong Thần phả Đỗ tướng công chép:
“Ngày 8 tháng giếng năm Mậu Thìn (968), Đỗ tướng công cùng Đinh Bộ Lĩnh
giao phong ở khu vực núi Hoàng Xá. Ông bị quân của Đinh Bộ Lĩnh núp
trên núi bắn trúng một mũi tên tẩm độc. Ông chạy đến chân núi Sài (núi
Sài Sơn, nơi có chùa Thầy) thì chết, thọ 56 tuổi. Ngựa xích thố của ông
chạy trở lại núi Ỏn hí vang như sấm rồi chết tại đó.
Khi Đỗ tướng công thất thủ chạy về núi Sài, bà bán nước thấy ngài còn ngồi trên ngựa, ngài ngửa mặt lên trời mà nói lớn:
- Ta sống là anh hùng cái thế cứu dân, cứu nước. Ta chết làm tam xã vi thần hộ tướng hộ dân an lạc thái bình.
Ngài ngã ngựa, quân của ngài chạy theo
đã nghe tiếng ngựa hí ở núi Ỏn, vì rừng rậm không ai tìm thấy xác ngài.
Sáng hôm sau, bà cụ ra nơi ngài hóa đã thấy mối đùn thành gò lớn, từ đó
bà cụ hàng ngày hương khói cho ngài. Một đêm cụ nằm mộng thấy Ngài oai
phong lẫm liệt bảo rằng:
- Ta sẽ là Thành Hoàng Tam Xã, nhân dân Tam Xã sẽ nhang đèn cho bà cùng với ta.
Ít lâu sau bà cụ ra đi như giấc ngủ.
Lúc ấy nhân dân biết được việc ấy mới làm một gian nhà bằng cỏ gianh
trên mộ để cúng bái. Lúc này chưa ai biết tên huý của Ngài nên chỉ khấn:
“Đẳng thần Tướng Quốc vị Vương Tam Xã”. Hai năm sau, hai quan đồng liêu
của Ngài là Dương Cát Lợi và Lữ Sử Bình đi tìm và thăm mộ ngài, nhân
dân mới biết tên huý của Ngài. Từ đó hàng năm cứ đến mùng 8 tháng giêng,
nhân dân lại tổ chức cúng tế Ngài. Trước khi chính tế thì tế hàng ngang
cho bà bán nước. Tế hàng ngang chỉ mặc áo dài đen, khăn gõ... tế trầu
cau hương nước, quả thực”.
Đền Tam xã nói tới ở đây được nhân dân
xã Sài Sơn, Thuỵ Khuê và Đa Phúc góp công xây dựng nên gọi là đền Tam
Xã (ba xã trên là 3 làng thuộc tổng Lật Sài, phủ Quốc Oai, Huyện An Sơn
ngày trước). Theo nhân gian truyền lại, Đỗ Cảnh Thạc được truy tôn là
Độc Nhĩ vương thượng đẳng thần. Khi tế lễ không dùng sắc phục màu vàng
bởi ông chết trận, lại kiêng huý, cấm ngặt việc dùng chữ “Thạc”, nếu
viết phải bớt nét, nếu nói thì phải lệch đi để tỏ lòng tôn kính.