Báo Nhân Dân mong muốn nhận được nhiều ý
kiến đóng góp thiết thực của nhân dân về bản Dự thảo Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi năm 2013).
 |
Các dân tộc Việt Nam cùng chung sống bình đẳng, đoàn kết |
Mấy ý kiến về dự thảo sửa đổi Ðiều 5, Hiến pháp năm 1992
Nhận thức về "Ðiều 5"
Ðiều 5, Hiến pháp năm
1992 là điều đề cập quan điểm, chính sách của Nhà nước, các vấn đề chung
nhất đối với cộng đồng các dân tộc nước ta - những vấn đề đặt ra cơ bản
nhất về mặt Lập hiến trong điều kiện của quốc gia đa dân tộc. Ðây là
một Ðiều có vị trí rất đặc thù, quan trọng, có ý nghĩa nhiều mặt, liên
quan đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đến sự phát triển bền
vững của quốc gia. Ðây là điều liên quan trực tiếp và điều tiết mối quan
hệ chính trị - xã hội của các thành phần tộc người, liên quan đến con
người, có tính nhạy cảm; liên quan đến dân tộc đa số và dân tộc thiểu
số. Mọi quy định trong "Ðiều 5" sẽ là định hướng để hình thành các văn
bản luật liên quan đến mối quan hệ dân tộc trong quá trình xây dựng và
phát triển đất nước trong bối cảnh tình hình mới.
Tôi cho rằng, đấy là nhận thức hiện nay
cần phải có "Ðiều 5" để hình thành các "khoản, mục" của nó. Nếu nhận
thức khác đi sẽ dẫn tới hình thành các nội dung không bao quát, sẽ thiếu
tính điều tiết toàn diện của văn bản pháp quy cao nhất.
Về nội dung dự thảo Ðiều 5
Ðiều 5, dự thảo gồm 4 khoản:
"1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các
dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và
phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của
mình.
4. Nhà nước thực hiện chính sách phát
triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát huy
nội lực, hòa nhập vào sự phát triển chung của đất nước."
Bốn khoản nói trên của Ðiều 5 đã thể hiện được mấy vấn đề sau:
- Khoản 1: Xác lập quyền sinh sống của
các dân tộc trên lãnh thổ quốc gia - Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Ðây là khoản có thứ tự đầu tiên là phù hợp, thể hiện được tính đặc
thù của quốc gia đa dân tộc, phù hợp hơn so với trước đây khi khoản này
đề cập đến "Nước" chứ không phải "Nhà nước...". Khoản này không chỉ có ý
nghĩa quốc gia (đối nội) mà còn có ý nghĩa quốc tế (đối ngoại).
- Khoản 2: Thể hiện thái độ, mục tiêu
của Nhà nước về mặt chính sách đối với các dân tộc; mối quan hệ giữa các
dân tộc đa số và thiểu số, nền tảng của đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng
thời là nền tảng của sự phát triển bền vững của quốc gia.
- Khoản 3: Xác định ngôn ngữ chung của
quốc gia đa thành phần dân tộc, và quan điểm tôn trọng, tạo điều kiện
bảo tồn, phát huy của Nhà nước đối với ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết),
văn hóa của các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ quốc gia.
- Khoản 4: Thể hiện quan điểm, chính
sách của Nhà nước đối với các dân tộc thiểu số - những cộng đồng tộc
người do đặc điểm lịch sử đã và đang có những nét riêng, khó khăn trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập sự phát triển chung của
địa phương và quốc gia.
Từ các vấn đề được đặt ra trong bốn khoản của Ðiều 5 trên đây, có hai câu hỏi đặt ra là:
- Những nội dung dân tộc được quy định trong Hiến pháp đã đủ hay chưa, còn những vấn đề gì phải bổ sung hay không?
- Các nội dung được thể hiện qua các khoản của Ðiều 5 đã rõ hay chưa, khoa học và lo-gich cao hay chưa?
Có thể nói bốn khoản của Ðiều 5 dự thảo
đã đề cập và thể hiện được những quy định then chốt, thể hiện được mối
quan hệ của hai chủ thể: Nhà nước - Các dân tộc (đa số, thiểu số). Tuy
nhiên, theo tôi vấn đề đặt ra là trên cơ sở các khoản mục đó có thể bổ
sung và thể hiện sao cho rõ hơn. Trên tinh thần đó, tôi có mấy đề xuất
về các khoản của điều 5, xin được nêu để tham khảo:
"Ðiều 5.
1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
2. Các dân tộc sinh sống trên
lãnh thổ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quyền và nghĩa vụ
bình đẳng nhau về chính trị, kinh tế, xã hội; cùng nhau phấn đấu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc thực hiện dân giàu, dân chủ, văn minh.
3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng
Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết; giữ gìn, phát huy
bản sắc và truyền thống văn hóa tốt đẹp của mình. Nghiêm cấm mọi hành vi
kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
4. Nhà nước thực hiện chính sách
phát triển toàn diện trên nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ,
tôn trọng cùng phát triển đối với các dân tộc; tạo điều kiện để các dân
tộc thiểu số phát huy nội lực, hòa nhập vào sự phát triển chung của đất
nước".
Năm khoản thuộc Ðiều 5 mà chúng tôi kế thừa đề xuất trên đây là cấu trúc thuộc ý đồ sau đây:
- Khoản 1, thuộc quan niệm chung như đã
trình bày: Xác lập quyền sinh sống của các dân tộc trên lãnh thổ quốc
gia - Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Khoản 2, xác định quyền và nghĩa vụ
bình đẳng, cơ bản của các dân tộc và mục tiêu phấn đấu của các dân tộc
khi chung sống trên lãnh thổ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tôi cho rằng, đây là mục quan trọng không thể thiếu và nên đặt ở khoản
2. Nên gộp khoản 2 và khoản 4 (dự thảo) vào mục chung về "chính sách".
- Khoản 3, xác định ngôn ngữ quốc gia và
quyền của các dân tộc về sử dụng tiếng nói, chữ viết, bảo tồn và phát
huy bản sắc, giá trị văn hóa truyền thống và việc nghiêm cấm những điều
không được làm.
- Khoản 4, thể hiện quan điểm, chính sách từ phía Nhà nước đối với các dân tộc nói chung và dân tộc thiểu số nói riêng.
Tôi cho rằng, thứ tự các khoản được sắp
xếp lại như trên thì lô-gich hơn. Các khoản từ 1 đến 3 mang tính nguyên
tắc, quy định chung đối với các dân tộc. Khoản 4 thể hiện quan điểm và
định hướng chính sách, trong đó thể hiện sự quan tâm đặc thù đối với các
dân tộc thiểu số.
Về câu chữ, lâu nay nhiều người quan
niệm "bình đẳng, đoàn kết" là chính sách thì không hoàn toàn như vậy.
"Bình đẳng","Ðoàn kết" (kể cả "Tương trợ" và "Tôn trọng") là nguyên tắc
quán triệt trong quá trình hoạch định và là mục tiêu đạt tới của các
chính sách. Còn chính sách phải là các vấn đề cụ thể hoặc "toàn diện".
Còn khoản 3, theo tôi nên bỏ cụm từ diễn
giải "phong tục tập quán truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình" vì
chỉ cần nói "giữ gìn, phát huy bản sắc và truyền thống văn hóa tốt đẹp
của mình" là gọn và đủ./.