Thứ sáu, 08/03/2013 10:54
Thơ của một người mẹ trăm tuổi
Bà là Phạm Thị Trinh, em gái cố Trung tướng - Anh hùng LLVTND Phạm Kiệt - một trong những chỉ huy khởi nghĩa Ba Tơ, vợ cố Anh hùng LLVTND Nguyễn Chánh - Tư lệnh lực lượng vũ trang liên khu V thời chống Pháp, là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930.

Sống tới xuân này, bà tròn
trăm tuổi. Một phúc thọ đáng kính nể. Đáng kính nể hơn khi được đọc
những bài thơ của hai vợ chồng bà làm trong khi hoạt động bí mật, làm để
gửi cho nhau, an ủi nhau gắng gỏi kiên trinh. Thời ấy, hoạt động bí mật
của Đảng chứa đựng những tình cảm thật lạc quan, trong sáng. Họ vừa
hoạt động, vừa yêu nhau, vừa dìu dắt nhau vượt qua những thử thách khốc
liệt. Và làm thơ chia sẻ cùng nhau. Thật lạ, cũng là Đường thi. Nhưng
Đường thi của những chiến sĩ cộng sản thời ấy sao chất ngất bi hùng đến
vậy. Đọc bài tứ tuyệt mang tên “Ý chí” của bà, đã thấy rõ cái chí khí
tranh đấu vừa trong sáng vừa kiên quyết của “gái hồng quần”:
Chiến đấu càng căng, chí chẳng nao
Lòng trong như ngọc, sáng như sao
Trăm năm giữ trọn niềm son sắt
Gian khổ nào lay nổi má đào!
Khai - thừa - chuyển - hợp đều rắn chắc như đá. Câu hợp thật kiêu sa:
“Gian khổ nào lay nổi má đào!”. Cũng vẫn ý chí ấy, khi trong ngục thất
cầm cố, nhịp thơ thất ngôn bát cú lại tiếp tục khẳng định ở 2 câu kết:
“Chết bỏ, sống về tranh đấu mãi/ Gian nan chi núng phận tơ đào”. Ngày
xưa, cổ nhân thường dạy: “Sống gửi - thác về”. Nhưng đến thời đại dấn
thân làm cách mạng thì tư duy sống chết của những người chiến sĩ này
thật dứt khoát, thật đáng khâm phục: “Chết bỏ, sống về”. Đấy là ý chí
của Nữ Oa “đội đá vá trời”: “Ví bằng ông tạo không xoay lại/ Ta cũng dời
non lấp bể Đông”. Bài “Đi xâu” có cái tứ rất mới: “Mấy chị em mình xách
chổi ra/ Bụi trần quét sạch nước non nhà …”. Và thật kiêu hãnh là bài
“Gặp Toàn quyền Pátxkiê”. Chuyện kể rằng năm 1932, đoàn đại biểu bộ
thuộc địa Pháp sang kiểm tra tình hình chính trị ở Đông Dương. Toàn
quyền Pátxkiê đến Quảng Ngãi gặp bà Trinh và bà Trần Thị Hiệp. Cuộc
tranh biện với toàn quyền đã được bà ghi lại bằng bài thơ đầy khẩu khí
nói trên. Cuộc tranh biện có hai nhà báo chứng kiến, sau đó về Pháp đành
phải công nhận ý chí của những người cộng sản Việt Nam:
Có hai nhà báo ghế bên kia
Chăm chú ngồi nghe tay chép ghi
Về Pháp truyền lời: “Cô thiếu nữ
Việt Nam cộng sản thế này đây!”
Một ý chí nữ nhi như bà Trinh thật hiếm thấy. Hiếm thấy hơn vì bà còn
biết làm thơ để tỏ rõ ý chí ấy. Có những người đàn ông như chàng Tiên
Kiết đã tỏ ra khinh khi, hợm hĩnh giễu cợt bằng thơ. Bà đã có ngay bài
thơ đối đáp khiến Tiên Kiết phải tỏ lòng khâm phục bằng một bài thơ
khác, “tâm phục, khẩu phục” như bậc thầy. Giọng thơ đối đáp cho thấy một
tinh thần tự hào của nữ giới Việt Nam như Hồ Xuân Hương: “Trời nay đã
có sắc màu nay/ Tiến mau cho kịp phường khăn yếm”.
Nhưng không chỉ tạc lên những ngôn ngữ rắn như đá, Đường thi của bà
Trinh lại có lúc rất mềm như nước. Đấy là khi phải chia tay với chồng về
quê sinh con, hay lúc tiễn chồng đi đày: “Rời chân không nỡ thẳng đường
dong”, “Làn khói nỡ đưa người cách biệt”. Có lúc lại dạt dào đồng cảm
vì cả hai đều lâm vào cảnh tù tội: “Từ đây giam hãm mỗi phương trời/
Cảnh ngộ chung, mà đứa một nơi”. Sở dĩ, có được giọng thơ như thế, ngoài
khả năng thiên bẩm, bà Trinh còn được nuôi dưỡng cảm hứng bằng những
vần thơ của người yêu và sau đó trở thành người chồng thân yêu. Thơ ông
Chánh làm tặng bà chính là một kích thích lớn lao cho giọng thơ của bà:
Em bước đi, mà anh mãi mong
Nhưng lòng mang nặng, khó dừng chân
Em đi quê mẹ - nhìn theo mãi
Một tấc lòng lo, một tấm thân
Vừa làm thơ để tự nhủ mình vững tin vào lý tưởng, thơ bà Trinh còn có
sức mạnh kêu gọi quần chúng cách mạng trong những ngày sôi sục cao trào
khởi nghĩa Ba Tơ:
Chị hãy cùng tôi, ta bước đi
Việt Minh cờ đỏ rực ba kỳ
Ta đi theo tiếng đoàn quân gọi
Đuổi Pháp về Tây, đuổi Nhật về
Kháng chiến thành công. Gia đình bà tập kết ra Hà Nội cho phù hợp công
tác của ông bà. Giữa lúc cả miền Bắc đang xây dựng “đổi sắc thay da”,
thì riêng bà lại phải chịu đựng nỗi đau mất mát người chồng thân yêu vào
năm 1957. Lúc ấy, giọng thơ bi hùng thuở xưa của bà lại chuyển thành
giọng thơ chan chứa nỗi niềm trắc ẩn:
Hôm nay đường sá tối tăm
Lòng không muốn khóc lệ tầm tã rơi!
Tôi mang vết thương lòng chiều thứ bảy
Thương lòng tôi là chiếc xe đen
Thương lòng tôi là cảnh khăn tang …
Bài thơ dài “Chiều thứ bảy” vừa lai láng buồn thương, vừa da diết, xót
xa trong cảnh ngộ trớ trêu khi “Hòa bình vừa mới thảnh thơi”. Từ đây,
thơ bà Trinh bắt đầu một âm điệu khác vừa từng trải hơn, vừa trầm lắng
hơn. Sự mất mát vẫn luôn thường trực trong cảm xúc của bà: “Anh trao nợ
ấy cho trần thế/ Ước hẹn giờ đây mới nửa chừng!”, “Em nghĩ thương anh
khổ suốt đời/ Sau ngày anh mất, vệ tinh bay …”. Nhưng trái tim kiên
trung của một chiến sĩ cộng sản đích thực đã không làm cho bà chìm vào
hệ lụy, biết tỉnh táo đi tiếp đoạn đường mà chồng bà đành dừng lại. Càng
sống bà càng sắc sảo hơn trong nhận định, trong thơ:
Có một điều tôi nhức nhối nhiều
Bầu trời tiêu cực, tệ quan liêu
Nhân văn thế sự - lòng trăn trở
Trật tự an toàn biến nỗi đau …
Đã trăm tuổi mà vẫn không hết trăn trở dưới “bầu trời tiêu cực”, bởi
thế, thơ bà Trinh đã vượt qua thời gian để trở thành không tuổi.
(Theo laodong.com.vn)
|
|
|
Tin đọc nhiều
Hà Nội từ lâu được bạn bè ...
11:18 | 10/06/2015
Nói về đóng góp của ...
02:58 | 12/12/2013
Bạn có nghe thông tin có ...
08:26 | 14/05/2013
Có lẽ, trong nhiều ...
02:22 | 26/05/2014
Nhìn lại khoảng thời ...
03:26 | 10/10/2014
|