Những chuyện ít biết về vua Đồng Khánh
Vị vua đầu tiên cho phát hành công báo
Công
báo được hiểu là ấn phẩm thông tin pháp lý chính thức của nhà nước, có
chức năng đăng tải các văn bản quy phạm pháp luật do người đứng đầu nhà
nước, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban và các văn bản pháp luật
khác.
Nhiều người nghĩ rằng công báo xuất hiện ở nước ta trong
mấy chục năm gần đây, nhưng thực ra tờ công báo đầu tiên ra đời vào
tháng 3 năm Bính Tuất (1886) đời vua Đồng Khánh. Theo vua đó là “muốn
nước nhà bỏ thói quen cũ, học theo người để mưu cầu đổi mới”. Trong sách
Đồng Khánh chính yếu cho biết vua đồng ý với đề xuất của bề tôi về việc
ra công báo, ông còn cho lập cả một cơ quan phụ trách hoạt động này:
“Quan Viện Cơ mật tâu xin phỏng theo cách làm nhật báo của các nước,
thành lập ra Cục Đại Nam công báo, trao cho sử quán kiêm quản công việc
này. Cứ 10 ngày ra chung thành một tờ. Viện Cơ mật cùng với các Bộ, nha
tập hợp, ghi lại những công việc đã thực hiện để giao cho Cục ấy, cứ 10
ngày một lần Cục tổng hợp kiểm tra, đối chiếu với văn thư trực ban của
từng ngày rồi giao cho thợ khắc in truyền bá ra ngoài”.
Sách Đại
Nam thực lục cho biết: “Viện Cơ mật tâu nói: Tục lệ các nước đều có nhật
báo tân văn, việc lớn thì chính sự triều đình, sau đến tình trạng hương
lý, cùng là giá hàng cao hạ, truyền bá với nhau, tuy việc hình như viển
vông, nhưng lấy đất mà khen chê công cộng, tình hình trong ngoài, động
có điều gì lầm lỗi, tức thì bị mọi người nghị luận, đó là một việc, mà ý
khuyên răn được ngụ ở trong. Nước ta từ trước đến giờ chưa từng làm
việc ấy, cho nên tình hình bên trong không thể thấu đến bên ngoài; tình
hình ở trong không thể thấu được, thì dân tình ở dưới thông với trên sao
được. Việc giao thiệp nhiều, nhật báo là cần hơn cả, nhưng xem xét nhật
báo ở các nước đều đặt ra Cục, người trông coi Cục ấy phần nhiều là
nhàn nhân, ẩn sỹ, cho nên nghị luận thường nhiều ý kiến cao rộng, và bản
in đều riêng từng chữ, xếp in dễ dàng, cho nên ngày nào cũng có, xin
bắt chước phương pháp các nước, lập Cục Đại Nam công báo nhưng do sử
quan kiêm giữ việc ấy, cứ 10 ngày hợp làm 1 tờ.

Một mẫu huân chương thời Đồng Khánh. Ảnh: Nguồn: http://users.panola.com/vietnam
Từ bỏ quan niệm lạc hậu, cho phép chụp ảnh chân dung
Đồng
Khánh là vị vua đầu tiên không nặng nề về quan niệm lạc hậu hồn vía khi
được Pháp đề nghị chụp ảnh để gửi về Pháp “cho biết mặt, tỏ rõ tình
giao hiếu”, nên vua Đồng Khánh đã cho phép thợ ảnh chụp mình vào tháng
Chạp năm Ất Dậu (tháng 1-1885). Bức ảnh vua Đồng Khánh sau đó được rửa
làm 2 bản, một gửi về Pháp, một nhà vua giữ lại.
Sách Đại Nam
thực lục chính biên chép rằng: “Niên hiệu Đồng Khánh, Ất Dậu, tháng 12.
Bấy giờ Phó đô thống Pháp bàn với đô thống đại thần ủy phái quan họa đồ
ấn ảnh Đại Pháp đến điện đình in chân dung của vua, gửi về nước Pháp để
tỏ tình giao hiếu với nhau. Viện thần nói: Quốc tục phương Tây, lấy việc
ấy làm trọng xin nên y theo. Mới chọn ngày quang tạnh, vua mặc mũ, áo
đại triều, ngồi ở điện Văn Minh cho quan Pháp chụp ảnh. Rồi chuẩn cho in
thành hai tấm ảnh, 1 tấm để lại dâng lên, 1 tấm gửi về Pháp”.
Theo
dữ liệu nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, tấm ảnh này chụp vào mùa đông
xứ Huế, trong điện Văn Minh không đủ ánh sáng nên tấm ảnh lịch sử của
vua Đồng Khánh gửi cho chính phủ Pháp không rõ lắm. Vì thế về sau vua
Đồng Khánh cho chụp lại, nhà vua mặc đại triều nhưng đầu lại quấn khăn
chứ không đội mũ. Tấm ảnh thứ hai này rõ hơn và được phổ biến rộng trên
sách báo từ đó đến nay.
Qua ghi chép của sử sách chúng ta có thể coi vua Đồng Khánh (1885 - 1888) là vị vua đầu tiên cho phép thợ ảnh chụp ảnh mình.

Bức chân dung vua Đồng Khánh (chụp năm 1886). Ảnh: TL
Cũng có một bài thơ “Nam quốc sơn hà”
“Nam
quốc sơn hà” được coi là bài thơ “thần”, là bản “tuyên ngôn độc lập”
đầu tiên ra đời trong cuộc kháng chiến chống giặc Tống xâm lược thời nhà
Lý. Còn bài thơ “Nam quốc sơn hà” của vua Đồng Khánh được viết vào
tháng 2 năm Đinh Hợi (1887) có nội dung thể hiện lo lắng trước thời
cuộc, nhắc nhở quan lại phải hoàn thành chức phận nhưng nội dung của bài
thơ gồm 20 khổ 80 câu thơ còn dành phần lớn để ca ngợi công lao của
sáng nghiệp của vua Gia Long, công tích của triều Nguyễn với dân chúng
và chỉ trích các đại thần Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường phế lập ngôi
vua, gây hấn với Pháp nên khiến đất nước rước họa binh đao, các cuộc
nổi dậy “phản loạn” khiến cho triều đình và Pháp phải cùng hợp sức đánh
dẹp “bọn ngông cuồng”. Bài thơ còn có đoạn nói rằng vì có ơn đức thấm
lòng dân mà Đồng Khánh được làm vua…
Bài thơ của vua Đồng Khánh
được mở đầu bằng hai câu: “Nam quốc sơn hà Nam đế đô/Thần truyền thánh
kế tráng hoàng đồ/Hưng diệt kế tuyệt cổ lai hữu/Thịnh suy bĩ thái há
thời vô” (Sông núi nước Nam vua Nam trị/Thần truyền Thánh nối rộng cơ
đồ/Còn mất, đứt nối, xưa nay vẫn thế/Thịnh suy, bĩ thái chẳng thuở nào
không).
Từng dự định sang thăm nước Pháp
Trong
lịch sử bang giao của nước ta với nước ngoài, vua Khải Định là người
đầu tiên xuất dương sang châu Âu, đến thăm nước Pháp vào năm 1922. Tuy
nhiên ít ai biết rằng vua Đồng Khánh cũng đã có kế hoạch sang Pháp nhưng
dự định bất thành bởi ông mất vì bạo bệnh ngày 27 - 12 năm Mậu Tý
(1888), một năm trước khi tiến hành cuộc Tây du.
Trong sách “Khải
Định chính yếu sơ tập”, có chép lời dụ của vua Khải Định, con trai vua
Đồng Khánh nói về chuyến đi bất thành của cha mình như sau: “Sự sáng
suốt, thân ái và tin cậy của Tiên Hoàng khảo chính khớp với tấm lòng của
quý Đại Pháp. Vì thế vào năm Đồng Khánh thứ 3, Mậu Tý, Người đã hạ sắc
quyết định rằng đến năm Đồng Khánh Kỷ Sửu, tức năm 1889 theo Tây lịch sẽ
ngự giá sang triều đình Pháp để bày tỏ tình hữu hảo từ xưa giữa hai
nước, thể hiện lòng chân thành hết mực tin cậy đối với Pháp, đồng thời
nhân đó đi khảo sát các nền chính trị văn minh để khi hồi loan sẽ cùng
với chính phủ Bảo hộ mưu tính tiền đồ tiến hóa cho dân nước ta. Ai đâu
có ngờ vận hạn gian truân, chưa kịp đi tới mục đích hoàn toàn thì vào
ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tý niên hiệu Đồng Khánh thứ 3, tức là ngày 28-
1- 1889, Tiên Hoàng khảo Cảnh Tôn Thuần Hoàng đế đã ngự lưng rồng lên
làm khách trên trời. Thế là ý nguyện ngự giá sang triều đình nước Pháp
biến thành niềm hư ảo mây trời, còn quốc dân đương thời cũng một phen
ngao ngán, thất vọng”.
Đặt lệ làm huân chương
Tại
Việt Nam, ít người biết rằng học hỏi theo và dựa vào cách thức, quy chế
về huân chương của Pháp, vua Đồng Khánh nhà Nguyễn đã ban hành những
quy định đầu tiên về huân chương.
Theo sách Đồng Khánh chính yếu,
vào tháng 2 năm Bính Tuất (1886), vua Đồng Khánh đã cho áp dụng kiểu
cách về huân chương, sách viết như sau: “Về phẩm cấp có cao có thấp,
công trạng có lớn có nhỏ, nên phân biệt ra hạng văn hạng võ, mỗi hạng
lại phân biệt ra thành ngũ đẳng khác nhau. Về văn: Hạng nhất là Khôi kỳ
long tinh; hạng nhì là Chương hiền long tinh; hạng ba là Biểu đức long
tinh; hạng tư là Minh nghĩa long tinh; hạng năm là Gia thiện long tinh.
Về võ: Hạng nhất là Trác dị long tinh; hạng nhì là Thù huân long tinh;
hạng ba là Tinh năng long tinh; hạng tư là Tưởng trung long tinh; hạng
năm là Khuyến công long tinh”. Các loại huân chương này được gọi chung
trong hệ thống Đại Nam Long tinh Viện hay Nam Việt Long bội tinh và là
những kiểu huân chương đầu tiên ở nước ta.
Trên đây là những dấu
ấn lý thú trong cuộc đời làm vua của Đồng Khánh, người mà ngay đến kẻ
bảo trợ, tạo dựng ngai vàng cho ông cũng đã phải thừa nhận: “Chưa hề ở
xứ sở nào, thời nào có ông vua bị thần dân oán ghét như vua bù nhìn Đồng
Khánh” (Charles Gosselin, L’Empire d’Annam, Paris, 1904, tr. 267).
(Theo phapluatxahoi.vn)