Giới thiệu Thể loại sách Sách điện tử Bạn đọc và NXB Các bài viết Kế hoạch đề tài Giao lưu trực tuyến Thư viện ảnh Thư viện Video
Tin tổng hợp Tin dự án Tin mới
Trang chủ     Tin tức    Tin tổng hợp
Thứ tư, 08/05/2013 08:21
Một cách bảo tồn di sản văn hóa
Thực hiện Chương trình 04 của Thành ủy Hà Nội về "Phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Thủ đô, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh", huyện Đông Anh đang từng bước tiến hành kiểm kê, lập hồ sơ khoa học đối với các hiện vật, sinh hoạt văn hóa trong hệ thống di tích trên địa bàn nhằm bảo tồn, lưu giữ vốn di sản văn hóa quý giá của cha ông để lại.
Nhu cầu bức thiết

Ngoài cảnh quan, không gian, niên đại, phong cách kiến trúc, giá trị của một di tích còn được nhận diện bởi hệ thống hiện vật, cổ vật bên trong và các sinh hoạt văn hóa truyền thống (nổi bật là lễ hội) gắn với di tích đó. Thế nhưng, nguồn lực đầu tư cho việc bảo quản, phát huy giá trị của di tích ở nước ta chủ yếu để tu bổ, tôn tạo, chống xuống cấp công trình di tích, còn hệ thống hiện vật, sinh hoạt văn hóa lễ hội hầu hết do các địa phương có di tích tự quản lý, tổ chức. Thực tế này khiến một lượng cổ vật không nhỏ trong di tích ở Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung bị "chảy máu", các sinh hoạt văn hóa dân gian bị mai một. Ông Hứa Đức Thịnh, Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin thị xã Sơn Tây cho biết, năm 2012, chùa Vân Gia, phường Trung Hưng bị mất pho tượng cổ. Sau đó, công an phải mất nhiều thời gian điều tra, tìm ra thủ phạm, đưa pho tượng quý về chùa. Cũng trên địa bàn thị xã Sơn Tây, sắc phong tại chùa La Gián, xã Cổ Đông, bị thất lạc nhiều năm, nhân dân đã mất nhiều công tìm kiếm. Khi tìm thấy mới vỡ lẽ là vào thời kỳ kháng chiến, một người dân ở Cổ Đông sơ tán, mang theo sắc phong. Sau này, vì người mang theo sắc phong đã mất nên "khổ chủ" không biết căn cứ vào đâu mà tìm kiếm. 
 
Lễ hội rước vua giả đền Sái (xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh).
Lễ hội rước vua giả đền Sái (xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh).

Thực tế đặt ra yêu cầu kiểm kê, quản lý cổ vật, hiện vật một cách chặt chẽ hơn. "Nếu hệ thống hiện vật trong di tích đã được kiểm kê tỉ mỉ, giao trách nhiệm quản lý rõ ràng thì tình trạng mất hay thất lạc cổ vật sẽ khó xảy ra, nếu xảy ra cũng sẽ dễ dàng tìm kiếm" - ông Hứa Đức Thịnh khẳng định.

Bà Nguyễn Thị Hạnh, Phó trưởng phòng Văn hóa - Thông tin huyện Đông Anh cho hay, các di tích ở Đông Anh chưa xảy ra vụ việc mất hiện vật nghiêm trọng nào, nhưng không có gì bảo đảm là điều đó không xảy ra trong tương lai khi phần lớn hiện vật được bảo quản khá "thô sơ", chưa từng được kiểm kê, nhận diện giá trị, người trông coi di tích thì thay đổi liên tục. Nhiều lễ hội gắn với di tích như lễ rước vua giả đền Sái (xã Thụy Lâm), hội kén rể Đường Yên, kéo lửa thổi cơm thi ở Lương Quy (xã Xuân Nội)... đứng trước nguy cơ mai một những giá trị gốc cũng vì chưa được bảo tồn, phát huy giá trị một cách bài bản, khoa học...

Không riêng gì Hà Nội mà ở Huế - nơi có bộ máy quản lý di tích tương đối đồng bộ cũng không tránh được tình trạng mất cổ vật. Ông Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế tiết lộ: "Mới đây, lăng Khải Định bị kẻ trộm đột nhập, lấy đi một số đồ dùng sinh hoạt của vua Khải Định và một hòm công đức. Lăng Minh Mạng trước đó cũng bị mất hòm công đức và nhiều cổ vật quý".

Như vậy, việc kiểm kê hiện vật và các sinh hoạt văn hóa dân gian trong di tích là đòi hỏi tất yếu, khách quan trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích hiện nay.

Kiểm kê để bảo tồn

Nhằm hạn chế tình trạng thất thoát di sản, đồng thời cụ thể hóa Chương trình 04 của Thành ủy Hà Nội, huyện Đông Anh là địa phương đầu tiên ở Hà Nội tiến hành kiểm kê, lập hồ sơ khoa học đối với từng hiện vật, sinh hoạt văn hóa liên quan đến di tích. Kết quả kiểm kê giai đoạn 1 ở 22 di tích ở các xã Đại Mạch, Võng La, Tàm Xá, Tiên Dương, Vĩnh Ngọc, Xuân Nộn và Uy Nỗ bước đầu cho thấy sự cần thiết của việc kiểm kê. Cụ thể, 1.689 hiện vật ở 22 di tích đã được giám định về tên gọi, vị trí, hình dáng, chất liệu, kích thước, màu sắc, hoa văn, niên đại, hiện trạng bảo vệ hiện vật... sau đó được phân loại theo 3 cấp giá trị và lập phiếu hồ sơ khoa học cho từng hiện vật. Bên cạnh đó, huyện đã cho dập các văn bia, chuông, khánh và dịch tư liệu trên các hoành phi, câu đối, bia đá, sắc phong từ Hán Nôm sang tiếng Việt, sau đó đóng quyển và lưu ở phòng văn hóa huyện, UBND các xã có di tích và tại chính các di tích. Các lễ hội tiêu biểu được ghi hình từ khâu chuẩn bị tới trình tự diễn tiến, dựng thành phim kèm theo lời bình.

Dựa trên kết quả kiểm kê, huyện Đông Anh đã xây dựng phần mềm quản lý, nhập dữ liệu thông tin khoa học, ảnh tư liệu liên quan đến di vật, cổ vật trong di tích, hình ảnh tư liệu lễ hội tiêu biểu nhằm từng bước số hóa công tác bảo tồn di sản, hạn chế tối đa tình trạng mất cắp cổ vật, hiện vật. Đáng nói hơn, thông qua nguồn tư liệu kiểm kê, người làm chuyên môn cũng như công chúng có sự hiểu biết đầy đủ, toàn diện hơn về lịch sử hình thành, quá trình tồn tại của di sản, từ đó nâng cao ý thức bảo tồn và phát huy giá trị di sản cho nhân dân. Theo lộ trình, huyện Đông Anh sẽ tiếp tục kiểm kê hiện vật, lễ hội trong 29 di tích ở xã Dục Tú, Đông Hội, Mai Lâm, Thụy Lâm trong năm nay.

Theo bà Nguyễn Thị Hạnh, chi phí cho công tác kiểm kê mỗi di tích, lễ hội hết khoảng 40 triệu đồng, vì thế huyện Đông Anh mới kiểm kê các di tích đã xếp hạng. Điều này lý giải vì sao việc kiểm kê di tích dù mang lại hiệu quả thiết thực nhưng khó có thể triển khai trên diện rộng. Mặc dù vậy thực tế đòi hỏi cần có quyết tâm, giải pháp phù hợp nhằm mở rộng diện kiểm kê di sản, việc rất đáng được ưu tiên trong nhiều phần việc của lĩnh vực văn hóa.
Tên đăng nhập
Mật khẩu
Tên truy cập (*)
Mật khẩu (*)
Xác nhận mật khẩu (*)
Email (*)
Họ và tên
Số điện thoại
Địa chỉ
Mã xác nhận (*)