Điểm qua vài nét về đền, nghè Thái Lai
Đền thờ Trần Công. Nghè thờ Hùng Bảo và Trần Nương. Trần Công tương truyền là huyện tể huyện Chu Diên, cha của Trần Nương - người đã có công giúp Hai Bà Trưng đánh đuổi giặc Hán xâm lược bảo vệ đất nước. Hùng Bảo, Trần Nương là hai vợ chồng, có công tập hợp tráng sĩ theo Hai Bà Trưng đánh đuổi Thái thú Tô Định nhà Hán ra khỏi nước ta. Hai Bà phong Hùng Bảo là Tiết chế tiền quân, Trần Nương là Trưởng lĩnh quân trung nữ tốt. Sau khi Trưng Trắc lên ngôi vua, phong Hùng Bảo là Thiên Bảo hộ quốc đại vương, phong cho Trần Nương là Ả Nương hoàng công chúa, ban cho Hùng Bảo đất Toàn Liệt, ban cho Trần Nương đất Thái Lai làm thực ấp, sau làm chỗ phụng thờ mãi mãi. Hai ông bà mất trong trận chiến với Mã Viện. Trưng Nữ Vương và các đời vua tiếp theo phong mỹ tự cho Hùng Bảo là Uy linh hiển ứng thiên bảo hộ quốc đại vương, Trần Nương là Ả Nương Hoàng công chúa đại vương linh phù chi thần.
Đền tương truyền xây dựng vào đầu công nguyên. Do trải lâu ngày nên bị đổ nát. Đến thế kỷ XIX đền xây lại.
Đền quay hướng tây nam, giáp sông Cà Lồ, bố cục hình chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung. Cửa đền trang trí hình rồng chầu mặt nguyệt, mái lợp ngói mũi. Tiền tế 3 gian, hậu cung 2 gian có kết cấu kiểu tứ trụ lòng thuyền và chồng bồn con lợn. Trang trí ở đền kết hợp nhuần nhuyễn giữa trang trí trên gỗ và đắp vẽ ngoã. Đặc biệt là trang trí ở tác môn, ván gió và cốn mê. Tác môn gắn liền với hệ thống cửa, chia làm ba tầng trang trí. Tầng dưới cùng lớn nhất bao gồm hết phần cửa. Hai bên đầu đốc đắp phù điêu nổi hình hai võ tướng. Tầng thứ hai có kích thước nhỏ hơn, hai ô hai bên trang trí các đường gờ soi đắp nổi và trổ thủng các hình chấn song, giữa có các đường diềm gờ tạo thành 6 hình bầu dục, trong đắp nổi hình hoa lá, bát bửu, ô giữa đắp nổi 4 chữ Hán Nôm Vạn cổ lưu phương... Tầng trên cùng, ô giữa cao hơn đó là một cuốn thư đắp cân đối, phần giữa cuốn thư đắp nổi 3 chữ Tối linh từ. Trên cuốn thư đắp hình mặt nguyệt rất mảnh. Hai ô hai bên đắp thủng hai rồng cuốn chầu vào. Đây là hình rồng cỡ lớn, đuôi xoắn, mắt xếch, miệng hơi mở, dữ tợn. Qua tác môn là vào tiền tế, nối với tiền tế là hậu cung. Chỗ tiếp giáp này được gắn bằng hai bức cốn gió, chạm tứ linh. Bức chạm rồng có kích thước lớn. Rồng có bờm tóc dài dữ tợn, mắt nổi lồi đen trắng, chân rồng choãi ra, bốn móng sắc bám chặt vào cánh mác trong tư thế nhìn xuống, đầu ngẩng cao rít mạnh một dòng nước hút lên. Trong dòng nước chạm một con cá chép cong mình cuốn quanh cột nước. Cạnh đó là rùa chân giơ lên, đầu ngước theo dòng nước. Kế theo là hình con ly - bờm tóc rậm rạp, đầu ngoảnh lại theo hướng đầu rồng, bốn chân choãi thẳng như đang phi nước đại. Phủ kín bức chạm là các hình vân mây, sóng nước được tỉa gọt tỷ mỉ, tinh tế. Ngăn cách giữa tiền tế và hậu cung là một tường xây gạch có 3 cửa. Phần trên các cửa có một cốn mê hình tam giác cân. Toàn bộ cốn mê đắp nổi và tô màu các hình rồng, phượng, vân mây. Trên cùng của bức cốn giáp mái đắp hình hổ phù lớn, bờm tóc dài rậm rạp, mũi chó, mắt lồi đen trắng, miệng ngậm chữ Thọ. Dưới hổ phù đắp đôi rồng chầu mặt nguyệt. Hai bên rồng chầu đắp hình phượng ở tư thế đang bay, cánh xoè rộng, đầu ngẩng, mắt lá dăm, mỏ vàng khoăm cắp dải lụa dài buộc bút sách. Phía dưới hình phượng, chỗ cửa ra vào là hình ly đang trong tư thế phi, đầu tóc dữ dằn, lưng cõng chữ Thọ. Phủ kín bức cốn là các hình vân mây, lá tạo tác tỷ mỉ, mềm mại.
Đền còn lưu giữ một số di vật thờ bằng gỗ.
Chưa rõ nghè xây dựng vào thời điểm nào. Kiến trúc hiện nay có niên đại nửa cuối thế kỷ XIX. Nghè quay hướng tây nam, có quy mô nhỏ, bố cục hình chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung.
Kết cấu gỗ theo kiểu tứ trụ, quá giang gối tường. Các hoành, dui làm bằng gỗ, mái lợp ngói mũi. Tiền tế và hậu cung mỗi toà đều 3 gian, trang trí tập trung ở tác môn và cửa võng nghi môn. Tác môn 3 tầng, tầng thứ nhất chia làm 3 ô cửa vòm không cánh, diềm ô ở hai bên trang trí nổi hình gạch múi bưởi và đường gờ. Diềm ô ở giữa đắp nổi hình hoa dây, giữa là nửa hình hoa cúc lớn, ba cửa được bổ 4 trụ, giữa là hai trụ tròn, hai đầu trụ vòng, trang trí hai câu đối chữ Hán Nôm. Qua một đường gờ lớn là đến 3 ô cửa tầng hai. Tầng hai có hai ô bên trong trang trí đường gờ và giải ô thủng tạo hàng chấn song, ô giữa ở các viền được nắp các hình bầu dục và lá dày, khoảng trống ở giữa đắp nổi 4 chữ Hán Nôm Âm dương hợp đức. Tầng trên cùng đắp cuốn thư to đẹp, trong đắp nổi 3 chữ Tối linh từ. Bên trên cuốn thư đắp hình mặt nguyệt, hai ô hai bên đắp hình rồng chầu vào. Sau rồng là hai cột trụ đắp hình con ly ở tư thế nhún mình như sắp nhảy. Qua tác môn là hệ thống 3 cửa, hai bên cửa đắp phù điêu nổi hai võ sĩ đứng. Qua tác môn và hệ thống cửa là vào tiền tế rồi đến hậu cung. Giữa tiền tế và hậu cung ngăn cách bởi một bức tường hai bên cạnh trổ cửa vòm đi lại, gian giữa là cửa võng sơn son. Ba phần diềm cửa với kỹ thuật chạm nổi đề tài rồng ở những tư thế khác nhau: bề trên cùng chạm hình rồng chầu, hai diềm hai bên chạm hình rồng cuốn.
Nghè còn lưu giữ các di vật đồ thờ bằng gỗ rất đẹp.
Kim Ngân