Giới thiệu Thể loại sách Sách điện tử Bạn đọc và NXB Các bài viết Kế hoạch đề tài Giao lưu trực tuyến Thư viện ảnh Thư viện Video
Tin tổng hợp Tin dự án Tin mới
Trang chủ     Nhà xuất bản    Các bài viết
Thứ tư, 05/07/2017 08:52
Đình Phú Gia

 Phú Gia là một làng cổ nằm ven sông Hồng thuộc phường Phú Thượng quận Tây Hồ, trước đây đình thuộc huyện Từ Liêm ngoại thành Hà Nội. Đình nằm cách trung tâm Hà Nội khoảng 13km về phía tây bắc. Ngôi đình được xây dựng trên một địa thế đẹp ở trung tâm của làng Phú Gia. 

 

Trước đây đình có quy mô nhỏ, đơn giản gồm 3 gian 2 dĩ, trong những năm gần đây được sự quan tâm của Uỷ ban nhân dân quận Tây Hồ, phường Phú Thượng và Công ty trách nhiệm hữu hạn Nam Thăng Long đã đầu tư để đại trùng tu lại ngôi đình nên diện mạo đình Phú Gia hiện nay khá bề thế trang nghiêm.

         

Ngôi đình được xây dựng trên một khu đất khá rộng cao thoáng ở trung tâm của làng Phú Gia và quay theo hướng tây, di tích có tường bao quanh, diện tích khoảng gần 2000m2. Phía trước là hệ thống các cây cổ thụ: đa, muỗm, si có tuổi đời hàng trăm năm tạo không gian mát mẻ trang nghiêm, cổ kính cho ngôi đình.

         

Ngoài cùng là ao đình được xây dựng theo hình tròn, diện tích khoảng 300m2, mùa hè được thả hoa sen toả hương thơm ngào ngạt tạo không gian thông thoáng tươi đẹp cho ngôi đình.

         

Nghi môn là một nếp nhà ngang ba gian làm bằng gỗ khá độc đáo, mái lợp ngói ta, bờ nóc đắp dạng bờ đình, đầu của hồi nóc xây cong hình mũi thuyền. Phần trên của các bờ dải cũng được làm cao khoảng 30cm, đầu mũi được tạo cong là đến sân gạch dài dẫn vào khu thờ tự, sân đình được chia thành nhiều cấp khác nhau, dọc hai bên sân có hai hàng cây cổ thụ gần nhà tả hữu mạc.

         

Công trình kiến trúc chính của đình Phú Gia gồm: đại đình và hậu cung. Toà đại đình gồm 5 gian mới được chính quền và nhân dân tu bổ lại trong thời gian gần đây bằng gỗ trên các bộ vì được thể hiện kiểu chồng rường, tiền kê, hậu bẩy. Mái lợp ngói ta, các góp mái được thể hiện các đầu đao cong hình đầu rồng hướng ngược về nóc mái. Phía trước là hệ thống cửa bức bản bằng gỗ. Toà đại đình Phú Gia được làm trên nền cao với 5 bậc đá từ sân đi lên. Đại đình gồm 5 gian rộng, bộ khung được làm bằng bê tông giả gỗ gồm có 4 bộ vì kèo (2 bộ vì kiểu thượng rường, 1 bộ vì kèo suốt, 1 bộ vì giá chiêng) đình cao khoảng 60cm so với mặt sân. Nhà đại đình được làm theo kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc chạy thẳng chính giữa đắp đôi rồng chầu mặt trời lửa. Hình rồng được làm đơn giản, đuôi xoắn, vây lưng và bờm nhọn. Hai bên hồi xây tường nối ra hai cổng nhỏ thông ra phía sau.

         

Hậu cung gồm 3 gian nhà ngang, làm kiểu đầu hồi bít đốc, mái lợp ngói ta. Nền nhà lát gạch, bộ khung nhà làm đơn giản kiểu vì kèo quá giang, bào trơn bóng bén, phía trước mặt là hệ thống cửa bức bàn gỗ. Gian chính giữa ở vị trí trung tâm đặt long ngai, bài vị ngai thờ và tượng thờ của thành hoàng làng.

         

Đình Phú Gia còn lưu giữ được hệ thống di vật phong phú đa dạng về thể loại và chất liệu với hệ thống các thần phả, chuông đồng, ngai thờ, kiệu gỗ, cửa vòng, hoành phi, câu đối, phỗng thờ, long ngai, bài vị… mang giá trị văn hoá, khoa học và thẩm mỹ cao cùng 12 đạo sắc phong (bản gốc) có niên đại trải dài qua các thời kỳ Lê - Nguyễn. Sắc có niên đại sớm nhất Thịnh Đức Lê Thần Tông đề ngày 06/7/1655. Đặc biệt trong đình còn bảo lưu bài vị thời Mạc bằng gỗ sơn son thếp vàng thì không nơi nào có. Các di vật này là nguồn tư liệu sống vô cùng quý giá góp phần lớn trong việc tìm hiểu về lai lịch các vị thần trong hệ thống thần điện của người Việt cũng như quá trình phát triển của đình làng Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử khác nhau của đất nước.

         

Về lai lịch của thần được thờ trong đình. Theo Sách “Việt Điện U linh” của Lý Tế Xuyên viết: Thời Khai Nguyên (713-739) nhà Đường thứ sử Quảng Châu là Lư Hoán sang đô hộ nước ta đóng đồn ở Thôn An Viễn khoảng giữa hai huyện Long Đỗ và Từ Liêm. Một hôm đi chơi thấy chỗ đất này bằng phẳng rộng rãi, cây cối tốt tươi, có sông Già La tổ sơn dẫn mạch, địa thế tuyệt đẹp. Lư Hoán sai lập phủ lỵ và dựng đền ở giữa thờ Huyền Thiên Đế Quân. Một đêm Lư Ngư mộng thấy một cụ già râu tóc bạc phơ đến bảo Ngư rằng: “Quán này nên đặt là Khai Nguyên dựng bia để biểu dương công đức của Thần”. Khi Lư Hoán thức dậy theo lời cụ già bèn đặt tên quán, tên thôn, dựng bia để nêu rõ công trạng của vua Đường Huyền Tông (Minh Hoàng) đời Đường. Trải qua các triều đại đền rất linh thiêng gọi tên là quán Già La hay còn gọi là Thần Già La.

         

Vậy thần Già La chính là bản cảnh thành hoàng. Già La là tên đất, tên sông thờ cổ, có khả năng nơi đây trước kia có nhiều cây Già La nên gọi như vậy. Thần Già La còn gắn liền với vị anh hùng dân tộc đã theo Phù Đổng Thiên Vương đi đánh giặc Ân rồi bị hy sinh. Thần đã có công đánh giặc ngoại xâm lại âm phù giúp nước, giúp dân trừ giặc giã thiên tai đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho muôn dân.

         

Theo cuốn thần phả “Bản xã thần ký” hiện còn lưu giữ tại đình thì đại vương là Thổ thần.

         

“…Lúc bấy giờ đê bị nước dâng lên ngập lụt, đời sống nhân dân cơ cực, khi ấy thổ thần linh ứng báo mộng rằng: “Ta sẽ âm phù cứu người, cứu dân, cứu nước”. Nạn hồng thuỷ mà các triều thần không hàn gắn nổi tấu biểu lên nhà vua, quan Khâm Sai nhận chỉ về lập đàn tế lễ cầu cứu thành hoàng. Đại vương ứng mộng cho thổ thần sáng hôm sau vào giờ Thìn có một cây gỗ lớn trôi đến nên thế nước từ trên xuống để ngăn dòng nước lũ. Nhân đó vua cho xây dựng miếu thờ Thổ thần. Miếu xây dựng ở thế đất “Hình nhân bái tướng” bên ngoài hoa tươi đầy cửa, bên trong bút nghiên tụ hội, phía đông có dòng nước ngược chầu về, phía bắc có núi tổ dẫn mạch, phía nam có minh đường mở ra cửa khẩu, phía tây thế rùa vàng ngậm châu. Xung quanh ruộng đất chầu về như lá cờ lớn trên gò, bên ngoài thất diệu” (mặt trăng, mặt trời, ngũ hành: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ) bao quanh ba vòng cầu vồng tiếp dẫn, ở giữa có giếng chí nguyệt. Nhân đó đổi thành xã Phú Gia cho phép nhân dân thờ phụng mãi mãi”.

         

Về sau các triều đại phong tặng cho thần là tối linh thượng đẳng thần cho khắc bia thờ phụng. Sau khi Lư Hoán sang cai trị lập quán tại Già La rồi đổi Già La thành làng Khai Nguyên tên quán là quán Khai Nguyên để tôn vinh vua Đường Minh Hoàng. Tuy nhiên nhân dân Giao Châu vẫn gọi là quán Già La, thời hậu Lê đổi là Quán La sông Già La đổi thành sông Thiên Phù.

         

Đến đầu thời Nguyễn bãi sông Hồng bị sụt lở nhân dân bỏ đi nơi khác sinh sống. Sau khi trở về với phong tục thuần hậu liền bắt đầu xây dựng lại để ghi nhớ công đức của thần. Nhân dân bèn dựa vào quy ước cũ và thần tích trong đình họp bàn xây dựng lại gọi là đình Phú Gia. Về sau các triều vua đã ban sắc phong cho thành hoàng là “đại vương là bậc Thượng đẳng thần ơn sâu như biển, thấm nhuần tới dân, thuận ý trời, hiển linh giúp dân yên vui mãi mãi”.

         

Hàng năm để tưởng nhớ công đức của đức thánh dân làng lấy ngày 10 tháng Giêng là ngày lễ hội đình làng để tỏ lòng thành kính và cảm tạ Thần đã phù hộ cho mưa thuận gió hoà, dân làng sống thanh bình, hạnh phúc.

         

Với những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể tiêu biểu như vậy, đình Phú Gia đã đóng góp không nhỏ trong việc nghiên cứu sự phát triển của đình làng Việt, vì thế đình Phú Gia đã được Bộ Văn hoá thông tin nay là Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia tại Quyết định số 53/2010/QĐ-VHTT ngày 28/12/2010.

 

Ngọc Bích tổng hợp

Tên đăng nhập
Mật khẩu
Tên truy cập (*)
Mật khẩu (*)
Xác nhận mật khẩu (*)
Email (*)
Họ và tên
Số điện thoại
Địa chỉ
Mã xác nhận (*)