Giới thiệu Thể loại sách Sách điện tử Bạn đọc và NXB Các bài viết Kế hoạch đề tài Giao lưu trực tuyến Thư viện ảnh Thư viện Video
Tin tổng hợp Tin dự án Tin mới
Trang chủ     Nhà xuất bản    Các bài viết
Thứ tư, 11/12/2019 09:43
Quá trình đô thị hóa ‘Khu phố Tây’ ở Hà Nội dưới thời Pháp thuộc

Sau khi Hà Nội bị chiếm đóng, người Pháp đã tiến hành nhiều đổi thay trên mọi phương diện trong đó có quy hoạch và phát triển đô thị. Từ 36 phố phường của Hà Nội gắn tên với đặc trưng tiêu biểu thì người Pháp đã có những quy hoạch và đổi tên gọi trong đó có khu phố Tây. Quá trình đô thị hóa ‘Khu phố Tây’ ở Hà Nội dưới thời Pháp thuộc đã được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu và phác họa, trong đó có thể kể tiêu biểu một số đầu sách xuất bản trong Dự án Tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến như: Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX của Nguyễn Văn Uẩn, Kinh tế xã hội đô thị Thăng Long – Hà Nội thế kỷ XVII, XVIII, XIX của PGS.TS. Nguyễn Thừa Hỷ… Từ những trang sách có thể thấy quy hoạch của Pháp với mục đích biến Hà Nội thành trung tâm quân sự và chính trị (trong tương lai), tạo điều kiện cho công cuộc khai thác thuộc địa.

 Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ‘Khu phố Tây’ hay còn gọi là ‘Khu phố Âu’, ‘Khu phố Pháp’ (nay gọi là ‘Khu phố cũ’) ra đời trong ý tưởng xây dựng một trung tâm hành chính, văn hóa, vừa là thủ phủ của Bắc Kỳ, vừa là thủ phủ của Đông Dương theo chủ trương khai thác thuộc địa của người Pháp. Những phố Tây đầu tiên được xây dựng ở Tràng Tiền, Hàng Khay, Tràng Thi nối liền với ‘Khu nhượng địa’ ở Đồn Thủy. Sau đó, ‘Khu phố Tây’ thứ hai ra đời sau khi chính quyền Pháp phá Thành Hà Nội và xây dựng khu phố Mới gần như chiếm toàn bộ vùng tây thành Hà Nội và mở rộng thêm về phía bắc và phía tây. ‘Khu phố Tây’ sau đó còn mở rộng về phía nam sang khu hồ Bảy Mẫu và hồ Thiền Quang…

Từ nội dung các chuyên đề trong sách, các tác giả đã cho biết diện mạo Hà Nội trước thời Pháp thuộc. Theo đó, ‘tỉnh thành Hà Nội’ tương đối nhỏ bé (trên thực tế chỉ gồm hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận của phủ Hoài Đức) trong ‘tỉnh Hà Nội’ rộng lớn (thành lập năm 1833 dưới thời Minh Mệnh, gồm gần như toàn bộ thành phố Hà Nội cũ, tỉnh Hà Đông cũ và tỉnh Hà Nam, sát đến tận tỉnh Ninh Bình). 

‘Tỉnh thành Hà Nội’ lúc này cũng không còn vai trò chính trị của một thủ phủ miền Bắc như trước, bản thân nó cũng chưa trở thành một không gian đô thị thuần túy. Diện mạo Hà Nội được tạo thành bởi các thành phần cơ bản là ‘Khu hoàng thành’, xung quanh là làng xóm, khu 36 phố phường, xen kẽ là các khung cảnh thiên nhiên khác.

Thành Hà Nội được bao quanh bởi những bước tường thành đặc biệt kiểu pháo đài Vauban kiên cố. Bên trong thành đặt cơ quan hành chính ở trung tâm; cơ quan quân sự hậu cần (phía nam) và các công trình phục vụ cho nghi lễ tôn giáo khác… ‘Khu 36 phố phường’ với các phố có cửa hàng buôn bán chế tác ở phía bắc hồ Hoàn Kiếm, phần còn lại của ‘tỉnh thành Hà Nội’ vẫn là cả một hệ thống các phường thôn nông nghiệp, bán nông nghiệp, một bãi bồi (Cơ Xá) và hàng trăm hồ ao, trong đó cảnh quan, diện mạo, quy hoạch nhà ở và đường giao thông được bố trí theo kiểu nông thôn, với một kết cấu nông nghiệp thủ công nghiệp…

Quá trình này bắt đầu từ những biến cố của lịch sử. Sau đợt công thành Hà Nội lần thứ nhất (1873), triều đình Huế đã nhượng cho người Pháp một khoảng đất diện tích 2,5ha ở Đồn Thủy bên bờ sông Hồng để xây dựng chỗ ở cho viên công sứ và đội hộ vệ. Khu vực này sau mở rộng lên 18ha. Tháng 10/1875, Pháp bắt đầu xây dựng các công trình kiên cố trên ‘Khu nhượng địa’ với một con đường xuyên khu (sau thành phố Nhượng địa và nay là đường Phạm Ngũ Lão).

Cảnh quan đô thị Hà Nội chỉ thực sự thay đổi từ khi Pháp chiếm thành Hà Nội lần thứ 2 (1882). Đặc biệt là khi Hòa ước Harmand (1883) và Patennotrê (1884) được ký kết, triều đình Huế chấp nhận nền bảo hộ của nước Pháp, thì công cuộc quy hoạch không gian đô thị được tiến hành mạnh mẽ.

Năm 1883, người Pháp cho mở một con đường nối ‘Khu nhượng địa’ với khu vực Tràng Thi và Hoàng thành cũ làm tiền đề cho việc hình thành trục trung tâm thương nghiệp dịch vụ mở đầu thời kỳ xây dựng ‘Khu phố Pháp’ tại Hà Nội.

Năm 1886, Paul Bert (Tổng trú sứ Bắc Kỳ - Trung Kỳ đầu tiên) đã tuyên bố sẽ biến ‘Hà Nội sẽ ngày càng trở thành một thành phố Châu Âu’. Sau đó, ông ta đã lệnh cho phá bỏ các bức tường bao quanh ‘Khu nhượng địa’ nhằm chứng tỏ Hà Nội là đất của người Pháp.

Năm 1888, Hà Nội trở thành thủ phủ của xứ Bắc Kỳ, đồng thời là thủ đô của Liên bang Đông Dương. Lúc này, Hà Nội chỉ gồm khu phố nội thành hiện nay nhưng chưa đầy đủ. ‘Khu phố Pháp’ ở đông nam và nam hồ Hoàn Kiếm có nhiều đại lộ song song và hành lang rộng trồng cây với khoảng 200 biệt thư tạo nên phong cách trái ngược với khu 36 phố phường dân gian.

Đến năm 1895, nhiều công trình quan trọng như Nhà hát Lớn, Bắc Bộ Phủ, Ngân hàng Magasins Reunis, Bưu điện, Ngân hàng Đông Dương được xây dựng ở khu vực đông nam hồ Hoàn Kiếm (biến khu vực này là trung tâm hành chính). Ở phía tây hồ Hoàn Kiếm, Pháp cho xây dựng trụ sở Giáo hội Thiên chúa (trên nền chùa Báo Thiên) biến nơi đây là trung tâm tôn giáo đầu tiên của Pháp ở Hà Nội.

Năm 1897, sau khi Thành Hà Nội bị phá bỏ khoảng 3/4 diện tích, người Pháp đã xây dựng ‘khu phố Mới’ gần như chiếm toàn bộ vùng tây Thành Hà Nội và mở rộng thêm về phía bắc và phía tây. Cũng cần phải nói thêm, vào thời gian này, chính quyền thuộc địa bắt đầu xây dựng một trung tâm có tầm quan trọng, mang tính biểu trưng lớn, trung tâm chính trị hành chính Đông Dương ở phía tây thành phố. Mặc dù mãi đến tận năm 1924, dự án quy hoạch khu phố Phủ Toàn quyền Đông Dương ‘Khu phố Tây’ thứ 2 ở tây thành phố và bắc Thành Hà Nội mới được Toàn quyền phê chuẩn, nhưng trên thực tế, ngay từ những năm 1900, một loạt các phố xây theo tiêu chuẩn châu Âu đã được xây dựng trên khu đất này. 

Từ năm 1889 đến 1907, Hà Nội thành công rực rỡ trong xây dựng đô thị. Theo báo cáo của Tòa đốc lý, toàn thành phố đã có 669 ngôi nhà xây dựng theo kiểu Âu, có thêm 85km đường mới mở... Cũng trong thời gian này, cầu Doumer (cầu Long Biên) và ga xe lửa Hà Nội được xây dựng (1902), 49 công trình lớn nhỏ, trụ sở của bộ máy chính quyền các cấp được xây dựng, tiêu biểu là hai cụm công trình Phủ Toàn quyền Đông Dương và Phủ Thống sứ Bắc Kỳ. Ngoài ra, chính quyền thuộc địa còn đầu tư một số cơ sở sản xuất điện như nhà máy điện Bờ Hồ (1899-1902), nhà máy nước Yên Phụ (1904-1906). Bên cạnh đó hệ thống đường theo mạng ô cờ khu vực phía nam hồ Hoàn Kiếm cũng được chú trọng xây dựng, việc chỉnh trang khu phố cổ cũng được quan tâm.

Từ năm 1920 đến 1945, người Pháp đã tiến hành hoàn thiện hệ thống cấu trúc đô thị. Năm 1930, quy hoạch tiếp tục được mở rộng về phía nam chủ yếu phục vụ người Việt. Đến năm 1936, địa giới hành chính Hà Nội mở rộng về mọi phía: phía bắc chiếm hết hồ Tây, phía tây theo ranh giới cũ đến tận Cầu Giấy, đường này chạy dọc sông Tô lịch, sau gồm cả Khương Trung, sân bay Bạch Mai, mở rộng về Hoàng Mai, Vĩnh Tuy và kéo tới sông Hồng. Toàn bộ khu đất này khi đó gọi là Đại lý Hoàn Long. Năm 1942, đơn vị hành chính Hà Nội gồm 17 quân nội thành và 5 huyện ngoại thành. Đến năm 1943, sau 7 thập niên thực dân Pháp đô hộ, đô thị Hà Nội mang cấu trúc đô thị tổng hợp, có sự đối lập trong đời sống giữa hai bộ phận dân cư (người bị trị - bản xứ người Việt và kẻ thống trị - thực dân Pháp).

Từ những tư liệu cũng như những gì mà Hà Nội hôm nay vẫn còn đó, các tác giả đã đưa ra các nghiên cứu chuyên đề về quá trình hình thành và biến đổi, quy hoạch, các loại hình kiến trúc của “Khu phố Tây” ở Hà Nội.

Trịnh Dũng

Tên đăng nhập
Mật khẩu
Tên truy cập (*)
Mật khẩu (*)
Xác nhận mật khẩu (*)
Email (*)
Họ và tên
Số điện thoại
Địa chỉ
Mã xác nhận (*)