Giới thiệu Thể loại sách Sách điện tử Bạn đọc và NXB Các bài viết Kế hoạch đề tài Giao lưu trực tuyến Thư viện ảnh Thư viện Video
Tin tổng hợp Tin dự án Tin mới
Trang chủ     Tin tức    Tin tổng hợp
Thứ hai, 27/07/2009 09:44
Từ nước giếng đến nước máy
Kinh đô Thăng Long thời Lý có nhiều vòng. Ngoài cùng là đê La Thành, cũng là lũy bảo vệ phòng giặc. La Thành có chu vi chừng 30km. Nơi vua quan ở gọi là cấm thành. Ngoài cấm thành gọi là kinh thành, khu vực dân sinh sống, buôn bán và làm các nghề thủ công.

Giếng cổ tại khu 18 Hoàng Diệu.

Thời Lý, Thăng Long có 61 phường nhưng đến thời Lê, Thăng Long được phân chia lại chỉ còn 36. Trong Kinh thành có nhiều hồ ao, nhất là phía đông với hồ Lục Thủy (nay là hồ Gươm) kéo dài đến tận đầu phố Lò Đúc hiện nay. Trong đợt khai quật khu 18 Hoàng Diệu năm 2005, đã phát hiện được một giếng thơi (loại giếng có đường kính chừng hơn 1m, miệng và đáy bằng nhau) nước trong khu vực cấm thành. Cái giếng thơi này xây gạch chỉ xung quanh từ trên miệng xuống tận đáy. Theo các nhà khảo cổ, giếng này chỉ là một trong nhiều giếng thơi phục vụ cho sinh hoạt của khu vực cấm thành.

 

Các phường trong kinh thành thời Lý không sử dụng nước giếng thơi mà sử dụng nước giếng đào. Mỗi phường có từ một đến hai giếng. Giếng có hình phễu, tùy theo số dân trong phường mà miệng có đường kính lớn hay bé, song nhỏ nhất cũng cỡ 40-50m. Xung quanh được đắp cao hơn so với bề mặt để ngăn nước mưa chảy xuống. Một nguyên tắc bất di bất dịch là giếng phải đào xa nơi ở của người dân. Điều này chứng tỏ, từ người dân Kinh thành rất ý thức về vệ sinh nguồn nước dành cho ăn uống và sinh hoạt. Tuy nhiên, không phải muốn đào ở vị trí nào cũng được mà trước khi đào, dân trong phường cho mời thầy địa lý đến xem để tránh đụng vào long mạch. Đụng vào long mạch là dân mang họa. Các quy định bảo vệ giếng cũng rất khắt khe và phường phạt nặng nếu ai chăn thả gia súc quanh giếng, gây mất vệ sinh. Nhà nào có người thân tự tử ở giếng thì nhà đó phải bỏ tiền ra đào giếng mới. Đến đời nhà Lê, sau khi dẹp được giặc Minh, Thăng Long - Đông Đô lúc này đông đúc dân cư hơn, đến mức có vị quan dâng sớ lên vua để đưa người nhập cư trở về quê của họ. Chợ búa sầm uất, các phường nghề cũng bung ra nên đất trong Kinh thành dần bị thu hẹp. Hồ ao bị lấp và để có nước cho sinh hoạt, người dân bắt đầu đào giếng thơi. Tuy nhiên không phải nhà nào cũng có thể đào được giếng thơi. Mô tả của các phóng viên tờ Tương lai Bắc kỳ năm 1883 cho thấy, các gia đình của 15 thôn sống quanh hồ Hoàn Kiếm, hằng ngày không chỉ rửa rau, vo gạo, tắm giặt mà còn lấy nước hồ để nấu ăn.

 

Sau khi chiếm Hà Nội vào năm 1883, lính Pháp đến Hà Nội đông hơn. Để có nước dùng, quân đội Pháp cũng cho đào giếng giống như người Việt nhưng họ không dùng gầu mà dùng bơm tay đưa nước lên. Trước đó, khi triều đình nhà Nguyễn chỉ đồng ý Pháp đóng quân ở Đồn Thủy, họ cũng sử dụng nước giếng thơi. Khi Hà Nội thành nhượng địa vào năm 1888 và các công trình phục vụ cho bộ máy cai trị được xây dựng, song tại Phủ thống sứ, Bắc bộ phủ, Tòa Đốc lý... vẫn sử dụng nước giếng thơi. Mãi đến năm 1896, nhà máy nước đầu tiên tại Hà Nội mới được xây dựng ở Yên Phụ. Nhà máy này chỉ cung cấp cho các cơ quan công quyền, binh lính và người Pháp. Nhà máy hoạt động bằng cách bơm nước ngầm lên các bể lọc sau đó chảy vào đường ống dẫn chính đến các nơi cần cung cấp. 38 năm sau - năm 1934, Pháp xây dựng nhà máy nước thứ 2 tại Đồn Thủy. Dân số gia tăng và người Hà Nội đòi phải được sử dụng nước máy nên năm 1936, chính quyền Pháp cho xây tiếp nhà máy thứ 3 ở Bạch Mai. Năm 1939 xây Nhà máy Ngọc Hà, năm 1944 xây Nhà máy Ngô Sĩ Liên và trước khi buộc rút khỏi Việt Nam theo Hiệp định Giơ-ne-vơ thì Nhà máy nước Gia Lâm hoàn thành. Hà Nội từng rơi vào cảnh thiếu nước sạch vào năm 1946 khi Pháp tái chiếm Hà Nội. Nhà thơ Quang Dũng đã viết: Thôi chào Hà Nội lửa ngang trời/Ta đi ngõ gạch tường đang đục/Gạn từng giọt nước đánh cầm hơi.

 

Khi nguồn cung cấp nước sạch khá dồi dào, chính quyền lúc đó cho lắp các máy công cộng trên các tuyến phố chính. Dân ra lấy nước mang về không phải trả tiền. Hộ nào có tiền thì họ cho lắp đường ống đến tận nhà và đặt đồng hồ nước để thu tiền. Chuyện anh xe vào uống nước máy quen chị sen đi lấy nước cho chủ rồi lấy nhau một thời là đề tài cho các nhà văn những năm 30 thế kỷ trước. Rút khỏi Việt Nam, người Pháp để lại cho Hà Nội gồm một mạng truyền dẫn và phân phối dài 80km, 17 giếng sản xuất nước và 6 nhà máy với tổng công suất 26.000m3 nước/ngày - đêm, phục vụ cho 24.000 dân nội thành. Sau khi bộ đội về tiếp quản Thủ đô tháng 10-1954, dân số Hà Nội tăng đột biến. Mỗi số nhà trước đó chỉ có một chủ nay có khi lên hai ba chủ. Thời điểm này, nước máy tuy thiếu nhưng vẫn chưa đến mức nghiêm trọng. Song để có nước cho người dân sinh hoạt, lúc này Hà Nội cùng với miền Bắc xây dựng xã hội mới với nhiều khó khăn nhưng thành phố vẫn cố gắng xây dựng thêm các nhà máy nước mới như: Lương Yên (1957), Tương Mai (1963). Năm 1972, năm không quân Mỹ đánh phá Hà Nội dữ dội nhất, Nhà máy Hạ Đình vẫn được xây dựng và đưa vào sử dụng. Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri và rút khỏi Việt Nam ngày 27-1-1973, người Hà Nội từ các nơi sơ tán đổ về thì nguy cơ thiếu nước sạch bắt đầu diễn ra và tăng dần. Nguyên nhân là dân số Hà Nội lúc này đã tăng thêm 1 vạn người. Bên cạnh đó, các nhà máy nước không tăng công suất và hệ thống đường ống truyền dẫn đã cũ nát gây ra tình trạng thất thoát. Nước thiếu nghiêm trọng, thiếu đến mức chậu nước dùng để vo gạo, tiếp đó là rửa rau và cuối cùng là dội nhà vệ sinh. Ban ngày, nước từ đường ống chính rất ít nên vòi nước của các hộ tầng một khô khốc. Gần sáng, may ra mới "ri rỉ như trẻ tè". Trong suốt thời gian này, ở hầu hết các tuyến phố có đường ống chạy qua, người dân buộc phải đào nước ngầm mới có nước sinh hoạt. Nước từ đường ống chính chảy thẳng vào bể. Nhân viên công ty cấp nước sạch thấy bà con hàng phố đục đường ống cũng không dám phạt, lập biên bản xong để đấy. Bể có nắp tôn và khóa  cẩn thận. Bể nước ngầm trở thành nơi rửa rau, vo gạo, nơi tắm cho con trẻ về mùa hè. Có thời điểm Nhà máy Yên Phụ còn thiếu cả muối để lọc, đường ống lại không được xúc xả nên cặn vàng khè. Lại có khi đùn ra bể búi giun to tướng (loại giun cho cá cảnh ăn sống ở các rãnh nước thải). Để cho Lưu Quang Vũ không phải bận tâm việc nhà khi viết kịch, dù sức yếu nhưng nữ sĩ Xuân Quỳnh vẫn liên tục xách nước từ tầng một lên tầng ba ở khu tập thể 96 phố Huế cho chồng và con sử dụng. Ngày nghỉ, nhà thơ mang quần áo đến cơ quan để giặt "chùa". Tại nhiều khu tập thể cao tầng như: Kim Liên, Trung Tự, Nguyễn Công Trứ, Giảng Võ... hay các nhà trên gác, không nhà nào không sắm máy bơm. Chỉ có máy bơm Liên Xô mới đủ khỏe (mà cũng chỉ có máy bơm Liên Xô) để hút được nước. Mỗi lần bơm nước như đánh trận. Người dưới hét "Đừng cắm điện vội", người trên lại hỏi "Cắm được chưa?". Rồi phải có người ngồi canh vì bể hết nước mà không nhanh chóng rút điện máy bơm sẽ cháy.

 

Đầu năm 1985, sản lượng nước sạch ở Hà Nội là 210.000m3/ngày -đêm, với mạng lưới hệ thống đường ống truyền dẫn và phân phối dài 250km. Tháng 6-1985 Việt Nam và Cộng hòa Phần Lan đã ký hiệp định về việc Chính phủ Phần Lan viện trợ không hoàn lại để cải tạo, nâng cấp, mở rộng hệ thống cấp nước sạch cho Hà Nội. Chương trình được chia làm 3 giai đoạn và kết thúc vào tháng 6-1997. Trong đó có nâng công suất từ 210.000 m3/ngày-đêm lên 380.000m3, bằng cách xây dựng 4 nhà máy nước mới, nâng cấp Nhà máy Lương Yên, Yên Phụ. Thay thế khoảng 400km ống truyền dẫn và phân phối để cung cấp nước thêm cho khoảng 650.000 dân ở nội thành và ven đô. Tiếp sau chương trình cấp nước Phần Lan, Hà Nội lại thực hiện dự án cấp nước 1A. Đây là dự án mở rộng hệ thống cấp nước của Hà Nội với vốn vay tín dụng của Ngân hàng Thế giới để xây dựng 2 nhà máy nước sạch với công suất 30.000m3/ngày - đêm tại Cáo Đỉnh (huyện Từ Liêm) và Nam Dư ( huyện Đông Anh). Đến năm 2006, mỗi người dân Hà Nội được cung cấp khoảng 120 lít/người/ngày.

 

Có thể nước sạch bây giờ không thiếu nhưng những thay đổi trong sử dụng nước sạch ở Thăng Long - Hà Nội qua các thời kỳ cũng là một phần của lịch sử đời sống mảnh đất này. 

 

Theo Hà Nội Mới

 
Tên đăng nhập
Mật khẩu
Tên truy cập (*)
Mật khẩu (*)
Xác nhận mật khẩu (*)
Email (*)
Họ và tên
Số điện thoại
Địa chỉ
Mã xác nhận (*)