Giới thiệu Thể loại sách Sách điện tử Bạn đọc và NXB Các bài viết Kế hoạch đề tài Giao lưu trực tuyến Thư viện ảnh Thư viện Video
Tin tổng hợp Tin dự án Tin mới
Trang chủ     Tin tức    Tin tổng hợp
Thứ năm, 21/07/2011 08:41
Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam trong thư tịch cổ Trung Quốc
Trong suốt 22 thế kỷ, từ các đời Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Tống Thần Công, Minh Thành Tổ đến giữa thế kỷ XX (1951), tài liệu chính sử Trung Quốc đã chưa bao giờ cho thấy chủ quyền của họ đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa) trên Biển Đông của Việt Nam (mà họ gọi là Biển Hoa Nam). Trong khi đó, không ít thư tịch cổ Trung Hoa, do chính người Trung Hoa ghi lại trong lịch sử đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Bản đồ Trung Quốc thời nhà Thanh 1910 không hề có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

Theo luật pháp quốc tế, muốn xác lập chủ quyền lãnh thổ trên biển và hải đảo phải hội đủ 3 điều kiện: phải có sự hành xử chủ quyền của nhà nước; một cách liên tục và lâu dài; được sự thừa nhận của các quốc gia duyên hải, đặc biệt là các quốc gia tiếp cận và đối diện.

Những tài liệu chính sử của Trung Quốc cho thấy cho đến thế kỷ XIX người Trung Quốc cũng chỉ đi ngang qua các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không hề có việc tuyên bố, hành xử chủ quyền lâu dài và liên tục tại các đảo này. Một tài liệu đáng tin cậy về chính sử Trung Hoa là cuốn “Lịch sử Trung Quốc thời trung cổ” do Hàn Lâm Viện Trung Quốc xuất bản tại Đài Bắc năm 1978, học giả Hsieh Chiao-Mintrong bài “Nghiên cứu về lịch sử và địa lý” nhận định về cuộc thám hiểm của Trung Hoa tại đại dương như sau: “Suốt chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn hóa và khoa học, dân tộc Trung Hoa không tha thiết với đại dương”. Theo các tài liệu lịch sử chính thống “thảng hoặc triều đình Trung Hoa cũng gởi những đoàn thám hiểm đến Nhật Bản trong các thế kỷ thứ III và thứ II (TCN) và tại Đông Nam Á, Ấn Độ, Ba Tư và Phi Châu trong thế kỷ XV. Điểm rõ nét nhất là tại Thái Bình Dương có rất ít, nếu không nói là không có những vụ xâm nhập quy mô của Trung Hoa” suốt chiều dài lịch sử (từ đời nhà Tần thế kỷ thứ III TCN đến nhà Thanh từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX).

  Ảnh minh họa

 Hoàng triều dư địa toàn đồ (1728, 1729) cho thấy cương giới phía Nam Trung Quốc chỉ đến phủ Quỳnh Châu (Hải Nam)


Tiền Hán Thư (206 TCN) do Ban Cố (32-92) đời Đông Hán (25-220) soạn vào những năm Kiến Sơ (76-83) đời Chương Đế (76-88). Vào thời kỳ này, có thể nói rằng theo chính sử, người Trung Quốc chưa biết gì về các quần đảo ở Biển Đông (mà họ gọi là Biển Hoa Nam hay Nam Hải). Những ghi chép trong bộ Tiền Hán Thư chỉ nhắc đến đảo Hải Nam. Đoạn này được ghi chép như sau: “Từ huyện Từ Văn, Hợp Phố đi vào biển ở phía Nam, được đại châu (đảo lớn), Đông, Tây, Nam, Bắc vuông ngàn dặm. Năm đầu niên hiệu Nguyên Phong (110 TCN) đời Vũ Đế (140-87 TCN) lấy làm quận Đảm Nhĩ, Châu Nhai. Dân đều mặc vải như vỏ chăn khoét giữa chùm qua đầu khi mặc. Đàn ông cày ruộng, trồng lúa, đay, gai, đàn bà trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa. Không có ngựa và hổ, dân có 5 gia súc, trên núi có nai, hoãng. Binh thì dùng giáo, mộc, đao, cung, nỏ, tên tre hoặc mũi bằng xương. Ban đầu là quận huyện, quan lại là người Trung Quốc phần nhiều nhũng nhiễu, nên dân mấy năm một lần chống lại. Đời Nguyên Đế (48-33 TCN) bèn bãi bỏ”. Như vậy, Tiền Hán Thư chỉ nhắc đến đảo Hải Nam và sự kiện chinh phục đảo Hải Nam năm 110 TCN của nhà Hán. Sự kiện chinh phục đảo Hải Nam chứng tỏ đảo này không thuộc nhà Hán. Người dân bản xứ được nhắc đến ở đây là các tộc người đã đứng dậy chống lại ách đô hộ của nhà Hán, buộc quân Hán xâm lược phải rời bỏ đảo vào thời gian đó.


Đường Thư (608-907) do Âu Dương Tu (1007-1072) biên soạn trong những năm 1054-1060. Trong bộ Đường Thư này, có hai đoạn liên quan đến địa lý hành chính của đảo Hải Nam. Đoạn thứ nhất về sự kiện xảy ra năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên. Đoạn này viết như sau: “Tháng 10, Lĩnh Nam tiết độ sứ (thống đốc) Lý Phục lấy lại Quỳnh Châu”. Về sự kiện thống đốc đạo Lĩnh Nam (nay là Quảng Đông, Quảng Tây) đem quân lấy lại đảo Hải Nam năm Trinh Nguyên thứ 5 (789), sau 100 năm dân bản địa nổi dậy làm chủ đảo này (từ năm 666 – theo Thái Bình Hoàn Vũ Ký của Nhạc Sử đời Tống), một số học giả Trung Quốc đã xuyên tạc là “các đảo Nam Hải từ năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên nhà Đường đã thuộc phạm vi quản hạt của Trung Quốc (Hàn Chấn Hoa, Ngã Quốc Nam Hải Chư Đảo Sử Liệu Hội Biên, 1988) hoặc quần đảo Trường Sa (Nam Sa) đã được “sáp nhập vào phủ Quỳnh Châu năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường” (Phan Thạch Anh, bài đăng trên Tạp chí Window, Hồng Kông, ngày 3 tháng 9 năm 1993).


  Ảnh minh họa

 Hoàng Triều nhất thống dư địa tổng đồ, bản đồ tổng quát đất đai thống nhất của nhà Thanh trong tập Hoàng Triều nhất thống dư địa toàn đồ được thực hiện năm 1894. Phần cực Nam lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam


Đoạn thứ hai viết về quy chế hành chính đảo Hải Nam, cụ thể như sau: “Nhai Châu, Quỳnh Sơn quận: Phủ đô đốc đặt năm thứ 5 niên hiệu Trinh Quán (631) tại huyện Quỳnh Sơn, tách từ Nhai Châu. Từ niên hiệu Càn Phong (666-668) về sau bị mất vào người Man trong sơn động. Năm thứ 5 niên hiệu Trinh Nguyên (789) Lĩnh Nam tiết độ sứ Lý Phục đánh dẹp, lấy lại được. Đồ cống có vàng. Gồm 649 hộ, 5 huyện là Quỳnh Sơn, Lâm Cao, Tăng Khẩu, Lạc Hội, Nhan La. Qua Đường Thư, người ta biết được rằng đảo Hải Nam được chia làm 5 đơn vị hành chính và tên từng đơn vị hành chính này. Đường Thư không chép bất kỳ nơi nào, ngoài các vùng đất trên đảo Hải Nam, thuộc lãnh thổ Trung Quốc.

Tống Sử (960-1297) do Tôgtoha, đại thần thừa tướng nhà Nguyên soạn năm Chí Chính thứ 3 (1343). Chương Dư địa chí, phần về địa lý hành chính đảo Hải Nam được chép như sau: “Quỳnh Sơn hạ, Quỳnh Sơn quận, Tĩnh Hải quân tiết độ sứ: Năm Đại quan thứ 1 (1107), đặt Trấn Châu ở Di động Lê Mẫu Sơn, cho quân ngạch là Tĩnh Hải. Năm Chính Hoà thứ 1 (111), bỏ Trấn Châu và ngạch quân, trở lại như cũ. Gồm 8963 hộ. Cống vàng, cau, có 4 huyện là Quỳnh Sơn, Văn Xương, Lâm Cao, Lạc Hội. Như vậy, qua sử của nhà Tống liên quan đến cương vực phía Nam của Trung Quốc, chúng ta biết được đảo Hải Nam thời kỳ đó có 4 đơn vị hành chính cấp châu và quân. Quân trong thời kỳ này là đơn vị hành chính cấp châu (trên cấp huyện). Chúng ta cũng biết rằng không có đơn vị hành chính nào trên đảo Hải Nam có tên là“Thiên lý Trường Sa” hay “Vạn lý Thạch Đường”. Trong đời Nhà Tống, trong hai thế kỷ thứ 10 và 11, quân Đại Việt đã 3 lần đánh thắng quân Trung Quốc: Lần thứ nhất, năm981, Lê Đại Hành phá đội hải quân của Lưu Trừng tại Bạch Đằng Giang; trong hai năm 1075 và 1076, Lý Thường Kiệt lại đánh thắng quân Nhà Tống tại Quảng Đông, Quảng Tây và trên sông Như Nguyệt và sông Phú Lương. Sau 3 phen thất trận, theo trình tấu của hoàng thân Triệu Nhữ Quát, vua Tống Thần Tông đã theo chính sách Trọng Võ Ái Nhân (thận trọng việc võ bị, thương xót mạng người, không phơi binh nơi lam chướng) để thừa nhận nền độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ của Đại Việt.

  Ảnh minh họa

 Đại Thanh Nhất Thống Toàn Đồ, đảo nhỏ ở phía dưới là Hải Nam, gần đó bên trái là Giao Chỉ, đảo lớn hơn bên phải là Đài Loan


Nguyên Sử (1206-1368) do Tống Liêm (1310-1381), là Hàn lâm học sĩ Á trung đại phu, kiêm tu quốc sử nhà Minh soạn theo chỉ dụ của vua Minh năm Hồng Vũ thứ 2 (1369). Trong Nguyên Sử, phần “Dư địa chí” cho thấy rõ lãnh thổ Trung Quốc đời Nguyên, cực Nam chỉ đến đảo Hải Nam, không bao gồm bất kỳ quần đảo nào ở Biển Đông. Trong Nguyên Sử, có hai sự kiện được người Trung Quốc trích dẫn làm bằng chứng là Trung Quốc đã quản lý và thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa), đó là: việc quan trắc thiên văn của Quách Thủ Kính năm 1279; và cuộc xâm lược Java (thuộc Indonesia ngày nay).

Qua ghi chép về việc Quách Thủ Kính quan trắc thiên văn trong Nguyên sử, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét: Một là, hoạt động quan trắc thiên văn là hoạt động khoa học về thiên văn để có tài liệu làm “lịch mới”, không liên quan gì đến việc hoạt động xác lập chủ quyền hay thực thi chủ quyền; Hai là, các điểm mà Quách Thủ Kính và đồng sự quan trắc nằm ở cả trong và ngoài giới hạn lãnh thổ của Trung Quốc đời Nguyên, trong đó “Nam Hải” là biển Đông, “Bắc Hải” là Bắc Băng Dương, “Thiết Lặc” nay thuộc vùng Xibiri Liên bang Nga, “Cao Ly” nay là Triều Tiên; Ba là, việc học giả Trung Quốc Hàn Chấn Hoa lấy hoạt động đo đạc quan trắc thiên văn ở Nam Hải đểcoi đó là chứng cứ khẳng định chủ quyền là không xác đáng. Ở đây có một số điểm làm cho lập luận của ông Hàn Chấn Hoa không thể đứng vững. Thứ nhất, trong thời kỳ này, Nguyên Sử đã chép rõ cực Nam giới hạn lãnh thổ của Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam. Đại Nguyên Nhất Thống Chí chép: “Cương vực Trung Quốc đời Nguyên phía Nam không vượt quá đảo Hải Nam, phía Bắc không vượt quá sa mạc Gobi”. Thứ hai, không thể suy luận người Trung Quốc đo đạc khoa học ở đâu thì lãnh thổ đó thuộc về Trung Quốc. Rõ ràng là Triều Tiên, Biển Đông, Bắc Băng Dương, Xi-bi-ri không nằm trong cương vực lãnh thổ Trung Quốc. Dù người Trung Quốc có đo đạc quan trắc thiên văn ở đây thì cũng không thể biến Triều Tiên, Biển Đông, Bắc Băng Dương, Xi-bi-ri thành lãnh thổ Trung Quốc.


  Ảnh minh họa

 Đại Thanh Nhất Thống Toàn Đồ, phần 12, đi vào chi tiết Đảo Hải Nam


Về cuộc xâm lược Java thất bại của Sử Bật năm Chí Nguyên thứ 29 (1293), sau khi mô tả diễn biến cuộc chiến giữa quân Nguyên và quân Java, Nguyên sử chép rằng, trên đường về Bật bị hàng tướng Java làm phản, đánh lại quân Nguyên. Sử Bật phải “chặn phía sau, vừa đánh vừa đi, 300 dặm mới lên được thuyền, đi 68 ngày mới về đến Tuyền Châu, quân sĩ chết hơn 3000 người”. Vua Nguyên thấy tổn thất quá nặng nên phạt Sử Bật bằng “đánh 17 trượng, tịch thu một phần ba gia sản”. Qua ghi chép trong Nguyên sử về sự kiện này, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét rất đáng chú ý: Một là, cuộc hành quân của Sử Bật là nhằm mục đích thôn tính Java, không thể coi đó là cuộc “tuần phòng” quần đảo Nam Sa (Trường Sa) như học giả Trung Quốc khẳng định trong bài viết “Quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc”, đăng trên Tạp chí Window, xuất bản tại Hồng Kông, ngày 3 tháng 9 năm 1993; Hai là, tuyến đường mà Sử Bật đi được mô tả trong Nguyên Sử bám sát đất liền, không hề qua quần đảo mà Trung Quốc gọi là Nam Sa. Từ Tuyền Châu (bờ biển Phúc Kiến, đoàn quân đi qua “Thất Châu Dương” tức là vùng biển Đông Nam đảo Hải Nam mà phía Đông là quần đảo Hoàng Sa ngày nay mà người Trung Quốc xưa gọi là “Vạn lý Thạch đường”, sau đó qua vùng Cù lao Thu – Hòn Hải ngày nay mà thời đó người Trung Quốc gọi là “Đông Đổng”, “Tây Đổng” rồi đi thẳng xuống vùng biển Java, tạm dừng trên cụm đảo “Kalimata” để chuẩn bị tiến vào Java. Rõ ràng, tuyến đường đó còn cách xa quần đảo Trường Sa vài trăm dặm. Không có bất kỳ chi tiết nào nào đoàn quân của Sử Bật đã qua quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa)càng không thể nói là Sử Bật đã “tuần phòng quần đảo Nam Sa”. 

  Ảnh minh họa

 Bản đồ Trung Quốc thế kỷ 17 của Peter de Goyer và Jacob de Keyzer biên giới phía Nam chỉ tới đảo Hải Nam


Đời Nhà Nguyên, trong thế kỷ 13, vào những năm 1257, 1284 và 1287, như dưới đời Nhà Tống, quân Đại Việt đã ba lần phá vỡ kế hoạch Nam Tiến của quân Nguyên-Mông.Sau ba phen thất bại, Nhà Nguyên không còn dòm ngó Việt Nam từ lục địa đến hải đảo. Và trong các thế kỷ 13 và 14, theo chính sử, quân Nguyên-Mông không hề xâm chiếm Hoàng Sa và Trường Sa. Sự kiện này được xác nhận trong cuốn “Tranh Chấp tại Biển Nam Hoa” của Marwyn Samuels theo đó:“Trong suốtthế kỷ 14 các đội hải thuyền hùng mạnh của Nhà Nguyên có đi tuần tiễu, nhưng tại Biển Hoa Nam. Hoàng Sa và Trường Sakhông bị chiếm đóng và không thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc”.


Đời nhà Minh, Thiên Hạ Thống Nhất Chi Đồ trong Đại Minh Nhất Thống Chí (1461), Hoàng Minh Đại Thống Nhất Tổng Đồ trong Hoàng Minh Chức Phương Địa Đồ (1635) đã vẽ phần cực Nam Trung Hoa là đảo Hải Nam. Trong khi cuốn Vũ Bị Chí của Mao Nguyên Nghi gọi Biển Đông là Giao Chỉ Dương. Trên các bản đồ Trịnh Hoà Hạ Tây Dương, Trịnh Hòa Hàng Hải Đồ cũng không thấy ghi chép các danh xưng Hoàng Sa, Trường Sa (hay theo cách gọi trung Hoa là Tây Sa, Nam Sa, Tuyên Đức, Vĩnh Lạc) trong các lộ trình và hải đạo của Trịnh Hòa sau 7 lần đi qua Biển Đông để khai phá Ấn Độ Dương (Tây Dương).

Nhiều tài liệu chính sử nhà Minh cho biết từ thế kỷ XV, các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nguyên là địa bàn ngư nghiệp của Chiêm Thành đã trở thành lãnh thổ của Đại Việt. Lưu ý rằng từ năm 1427 Lê Lợi đã đánh thắng quân Minh để giành lại chủ quyền cho Đại Việt bị Minh Thành Tổ cướp đoạt từ 20 năm trước (1407). Theo cuốn Lịch Sử Trung Quốc Thời Trung Cổ “từ 1405 đến 1433, phái bộ Trịnh Hòa đã viếng thăm 37 quốc gia duyên hải tại Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Các địa điểm xa nhất là Vịnh Ba Tư, Biển Hồng Hải về phía Tây Bắc, và Đông Phi Châu về phía cực Tây Ấn Độ Dương”. Vả lại,theo chính sử Trung Quốc, chuyến Đi Thứ Sáu của Trịnh Hòa chỉ kéo dài7 tháng(từ tháng 2-1421 đến tháng 9-1421). Trong chuyền đi ngắn ngủi này Trịnh Hòa chỉ đi từ Phúc Kiến đến Sumatra (Nam Dương). Kể từ đó hai sĩ quan tùy viên Yang Ching và Hung Pao đã đứng ra điều khiển cuộc hải trình. Nghĩa là, trong thế kỷ 15, không có việc Trịnh Hòa khám phá chây Mỹ như Trung Quốc khẳng định. Việc Columbus là người đầu tiên khám phá châu Mỹ là mộtsự kiện lịch sử đã được nhân loại ghi nhận từ 6 thế kỷ qua. Vậy mà ngày nay Trung Quốc dám sửachữa lịch sử và bóp méo sự thật. Huống chi là những hải đảo ít người biết tới ở một vùng hải phận xa xôi như hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


  Ảnh minh họa

 Bản đồ Trung Quốc năm 1910 thời Nhà Thanh


Đời nhà Thanh, từ thế kỷ thứ XVII đến XX, theo bản đồ Hoàng Thanh Nhất Thống Dư Địa Bản Đồ do triều đình nhà Thanh ấn hành năm 1894 thì đến cuối thế kỷ XIX “lãnh thổ của Trung Quốc chỉ chạy đến đảo Hải Nam là hết”. Qua thế kỷ XX, sự kiện này còn được xác nhận trong cuốn Trung Quốc Địa Lý Học Giáo Khoa Thư xuất bản năm 1906 với đoạn như sau: “Điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Châu Nhai thuộc quận Quỳnh Châu (Hải Nam) tại vĩ tuyến 18”. Các quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ thuộc đảo Hải Nam kéo dài từ vĩ tuyến 20 (ngang Thanh Hoá) đến vĩ tuyến 18 (ngang Nghệ An – Hà Tĩnh). Trong khi quần đảo Hoàng Sa tọa lạc về phía Nam, từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 15 (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi) và quần đảo Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 12 đến vĩ tuyến 8 (Cam Ranh – Cà Mau). Bản đồ Đại Thanh Đế Quốc do triều đình nhà Thanh ấn hành cũng không thấy vẽ các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (cũng không thấy ghi theo cách gọi của Trung Quốc là Tây Sa, Nam Sa, Vịnh Lạc, Tuyên Đức…). Hơn nữa, trong bộ Hải Quốc Đồ Ký, cuốn Hải Lục của Vương Bỉnh Nam (1820-1842) chép: “Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa) là dải cát dài ngoài biển được dùng làm phên dậu che chắn mặt ngoài bờ cõi nước An Nam”. Như vậy, tư liệu này của Trung Quốc đã thừa nhận quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ trên biển của Việt Nam. Trong bộ sách địa lý Đại Thanh Nhất Thống Chí do Quốc Sử Quán nhà Thanh biên soạn năm 1842 với lời tựa của hoàng đế Thanh Tuyên Tông, không có chỗ nào ghi Thiên Lý Trường Sa hay Vạn Lý Trường Sa (quần đảo Hoàng Sa). Trong khi, Hải Quốc Văn Kiến Lục của Trần Luân Quýnh (1744), vùng biển của Việt Nam tại Biển Đông được ghi bằng các danh xưng Việt Hải và Việt Dương. Trong vụ ngư dân đảo Hải Nam cướp tàu chở đồng bị đắm tại quần đảo Hoàng Sa những năm 1895-1896, để trả lời văn thư phản kháng của chính phủ Anh, Tổng Đốc Lưỡng Quảng Trung Hoa đã phủ nhận trách nhiệm với lý do: “Hoàng Sa không liên hệ gì tới Trung Quốc”.Ngoài ra cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự (1695) của Thích Đại Sán một nhà sư thời Khang Hy đã đến đất Thuận Hóa của chúa Nguyễn ngày 29 tháng giêng năm Ất Hợi (13-3-1695) thuật lại chuyến hải hành này và ghi nhận chủ quyền của Đại Việt trong việc chiếm hữu, kiểm soát và khai thác vùng Biển Đông nơi tọa lạc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất là từ thế kỷ thứ XVII.

Các tài liệu cổ của Trung Hoa rõ ràng cho thấy hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa) đã được người Việt Nam phát hiện, sử dụng trong nhiều thế kỷ một cách hoà bình và liên tục không có sự phản đối của bất cứ quốc gia nào kể cả của Trung Quốc. Điều đó được minh chứng từ tư liệu chính sử củanhiều triều đại Trung Quốc đã mặc nhiên thừa nhận chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong suốt hơn 22 thế kỷ từ thời Tần, Hán cho đến đầu thế kỷ XX.

Nhóm Biển Đông

 



Nhóm PV VnMedia

Tên đăng nhập
Mật khẩu
Tên truy cập (*)
Mật khẩu (*)
Xác nhận mật khẩu (*)
Email (*)
Họ và tên
Số điện thoại
Địa chỉ
Mã xác nhận (*)