Giới thiệu Thể loại sách Sách điện tử Bạn đọc và NXB Các bài viết Kế hoạch đề tài Giao lưu trực tuyến Thư viện ảnh Thư viện Video
Tin tổng hợp Tin dự án Tin mới
Trang chủ     Nhà xuất bản    Các bài viết
Thứ sáu, 04/03/2016 04:14
Chầu văn và múa Thiêng - lên đồng: Một loại hình ca hát cổ truyền của Việt Nam đang trình UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của thế giới

Chầu văn,  hát văn hay hát bóng, là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền của Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ Phủ (Đạo Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Đức Thánh Vương Trần Hưng Đạo), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Bằng cách sử dụng âm nhạc mang tính tâm linh với các lời văn trau chuốt nghiêm trang, Chầu văn được coi là hình thức ca hát mang ý nghĩa chầu thánh. Hát văn có xuất xứ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.

 
Chầu văn là thể loạ diễn xướng độc đáo có kèm theo âm nhạc. Bao giờ chầu văn cũng có giai đoạn dạo, gây không khí choáng ngợp làm người nghe xôn xao và bị lôi cuốn. Đến một lúc nhất định nó phối hợp với múa Thiêng (lên đồng). Những nhạc cụ phụ hoạ với Chầu văn là trống phách, tiu, chuông, cành, mõ, nhị, thập lục, đàn nguyệt (có khi là đàn dây). Người Chầu văn vừa hát vừa đàn. Chầu văn thường có chừng 20 làn điệu chính và biến tấu uyển chuyển. Mưỡu, Thổng (khác thổng ca trù) miêu tả sự trang nghiêm, gan dạ, cả quyết, có lúc tỉa tót, dịu dàng, nỉ non. Phú chênh nhắc nhở, nhớ nhung (gần gũi với ca trù). Hát dọc cởi mở, phóng túng, có cả vui lẫn buồn. Hát nối (hơi giống ca trù). Dọc xuân sắc, phú rầu gần giống (làn thảm) trong chèo nhưng phóng túng hơn. Hát nói, sử xuân nghe rầu man mác. Hát văn hơi giống chèo. Ngâm thiền, nói lối, canh, cà, bỏ bộ dịp một, Hát kiều, Nhạc sai thúc giục, dồn dập, Ngâm Vịnh, Đề thơ, Sá, Chèo Hát văn…
 
Chầu văn mang chất tiền tôn giáo, rồi những nét do nhiều tôn giáo khác nhau du nhập vào cộng đồng với những yếu tố dân gian, bản địa qua quá trình tồn tại và phát triển lâu dài của những cộng đồng. Lời và nhạc Chầu văn có sức khái quát, tượng trưng cao. Nó mô tả, trần thuật, kể sự tích, ngợi ca, cầu mong, khát vọng mãnh liệt, không trực diện với cái tư cách muốn vươn tới một bông hoa hoặc ngọn lửa tuyệt vời muôn đời, thiêng liêng nào đó mà con người khốn khổ, chưa với tới được. Đó là nghệ thuật ca nhạc vừa có sự yên lặng suy tư và có gió bão mãnh liệt (theo giáo sư Nhật Bản Ishixaưwa).
 
Thời kỳ thịnh vượng của Chầu văn là từ đời Lê, Lý, Trần rồi những năm 20 đến 40 của thế kỷ XX là những năm đông đình đắt đám.
 
Chầu văn có nhiều lò với tính cách, đặc điểm, phong cách khác nhau ít nhiều: Lò Nam Định, Hà Bắc, Hải Phòng, Hải Hưng, Thái Bình… Từ trước tới nay, một số nhạc sĩ đã khai thác một vài làn điệu trong Chầu văn và chúng đã được hoan nghênh ở trong nước cũng như ở nước ngoài. Nhưng mới chỉ là một tý chút mà thôi. Thật đáng tiếc. Chầu văn vẫn còn là một mảnh đất màu mỡ chưa được khai phá hết.
 
Những năm 1940 trở về trước tại Hà Nội và nhiều nơi thường tổ chức những cuộc thi hát Chầu văn: Hàng Quạt, Hàng Khoai, Hoà Mã, Hàng Bạc… Có cả những tài tử cự phách của Hà Bắc, Nam Định hoặc Hải Hưng lên tham gia. Giải thưởng treo rất lớn. Ban giám khảo gồm 3 người, một người thưởng bằng cách cầm chầu, một người phạt bằng tiếng chuông và một người cao tuổi hơn cả chấm điểm. Đời sống của các cung văn trôi nổi, giang hồ, đi khắp đó đây dựa vào các phường, các bạn.
 
Chầu văn ca ngợi, kể lại sự tích, miêu tả những nhân vật tuyệt vời mang tên tượng trưng như: ông Hoàng Mười, cô Chín, ông Hoàng Nam, ông Hoàng Bơ, ông Hoàng Bảy, bà Chúa Mường, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, chúa Liễu Hạnh…
 
Lời ca và nhạc Chầu văn gắn chất huyền thoại với chất chân thực vào nhau, vừa thánh thần, vừa phàm tục. Chầu văn nhấn mạnh tả cảnh đẹp của đất nước để điểm xuyết cho nhân vật và ngay nhân vật thần thánh phi phàm cũng mắc phải những lỗi lầm trần tục.
 
Nhạc Chầu văn thuần khiết và lôi cuốn lâu dài. Người ta nghe hăng hái ba giờ liền mà không chán tai… Múa Thiêng (còn gọi là lên đồng) người ngồi đồng cá tính nhất là lúc được thăng hoa, vẻ mặt hưng phấn. Họ hát lên từ trong lòng và dồn ra những động tác múa cách điệu, mới lạ. Tuy có những động tác vụng về nhưng đích thực và ngẫu hứng nên rất “người”. Có những điệu múa khăn mặt, múa chèo đò, múa kiếm, múa cung, múa nến…
 
Về trang phục trong múa Thiêng thật đáng quan tâm. Sắc màu của mọi thứ trang phục mang tính chất tôn giáo, cung đình và dân gian. Bà Thượng Ngàn mặc áo xanh để có sắc thái rừng núi. Màu xanh là màu chủ đạo và được nhiều màu sắc khác của những tà áo, giải áo, thắt lưng, khăn, các đồ trang sức phối hợp uyển chuyển để trở nên hoàn hảo. Trang phục toàn trắng gây tính chất nước non, sông biển hài hoà với những hoa văn, hoạ tiết trang trí nhiều màu sắc của toàn bộ trang phục phụ hoạ.
 
“Mẫu” mặc đỏ rực tạo ra uy quyền, trang nghiêm, cao cả… Lại tuỳ theo nhân vật mà mang theo những đồ dùng thích hợp như những chiếc nón, đôi hài, cái quạt, con dao, cái ví, ống vôi, xà ích, cái khăn tay… Tất cả những thứ đó đều kể lên nhiều chuyện có ý nghĩa. Chúng đều được gia công thật cầu kỳ và mang rõ bản sắc dân tộc.
 
Hầu đồng là nghi lễ nhập hồn của các vị Thánh Tứ Phủ vào thân xác ông Đồng bà Cốt. Trong nghi lễ đó, hát vǎn phục vụ cho quá trình nhập đồng hiển thánh. Sau khi đã múa các thánh thường ngồi nghe cung văn hát, kể sự tích lai lịch vị thánh đang giáng. Với các giá ông Hoàng thì cung văn ngâm các bài thơ cổ. Thánh biểu hiện sự hài lòng bằng động tác về gối và thưởng tiền cho cung văn. Lúc này cũng là lúc thánh dùng những thứ người hầu đồng dâng như: rượu, thuốc lá, trầu nước v.v. Các thứ thánh dùng phải làm nghi thức khai cuông (khai quang) cho thanh sạch.
 
Nói chung, Chầu văn và múa Thiêng cần phải được nghiên cứu một cách cẩn thận và khai thác nghiêm túc. Đây là một loại hình diễn xướng dân gian có giá trị. Nó đã toả ra, làm cho phong phú nhiều bộ ca nhạc, kịch, múa rối nước, trang trí, hội hoạ, tạo hình… của Việt Nam và khả năng này sẽ còn là vô tận nếu ta biết khai thác…
 
Chầu văn – múa Thiêng là một trong những di sản văn hoá cần được giữ gìn và phát triển. Tất nhiên phải gạt bỏ những ý đồ lợi dụng hình thức sinh hoạt này để đầu cơ, mê tín, trục lợi. Nếu ta làm được việc này một cách tốt, gắn bó vào với ba yếu tố cần thiết là xã hội, văn hoá và kinh tế thì nó sẽ trở thành một loại hình nghệ thuật hoành tráng về nhiều mặt cho dân tộc và cả thế giới. Nghệ thuật Chầu văn đang được quan tâm bảo tồn và lập hồ sơ trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể. Hiện tại, Nghi lễ chầu văn của người Việt ở Hà Nam, Nam Định đã được đưa vào danh sách 33 di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam (đợt 1).
 
 
Minh Thư tổng hợp
 
Nhà xuất bản Hà Nội
 
Tên đăng nhập
Mật khẩu
Tên truy cập (*)
Mật khẩu (*)
Xác nhận mật khẩu (*)
Email (*)
Họ và tên
Số điện thoại
Địa chỉ
Mã xác nhận (*)