Giới thiệu Thể loại sách Sách điện tử Bạn đọc và NXB Các bài viết Kế hoạch đề tài Giao lưu trực tuyến Thư viện ảnh Thư viện Video
Tin tổng hợp Tin dự án Tin mới
Trang chủ     Nhà xuất bản    Các bài viết
Thứ tư, 29/06/2016 11:34
Giấy dó lụa vùng Bưởi - Hà Nội

 Giấy dó gắn liền với trình độ văn minh và lịch sử văn hóa của dân tộc Việt. Từ vài thế kỷ nay, một số vùng ngoài Hà Nội cũng có giấy dó. Nhưng ngược về xa xưa, giấy dó là sản phẩm riêng của đất kinh kỳ và ngày nay vẫn là đặc sản có tính nghệ thuật của Hà Nội.

 Kỹ thuật giấy ngày càng phát triển cao, song những nhà máy giấy hiện đại vẫn phải chịu tài những người thợ thủ công vùng Bưởi về sản xuất giấy dó lụa. Vì ngoài quy trình công nghệ cơ giới hóa, sản xuất giấy dó còn đòi hỏi cường lực của bắp chân, sự nhuần nhuyễn của cánh tay và sự tinh tế của những “con mắt làm mặt đồng cân”, được truyền từ nhiều đời và được luyện từ tấm bé, mới tạo nên truyền thống nghệ thuật của tờ giấy dó lụa.

Giấy Việt Nam có từ xa xưa. Năm 284, các thương nhân La Mã đã mua của nước tab a vạn tờ giấy mật hương để dâng lên vua Tấn Vũ Đề. Học giả Trung Hoa ở thế kỷ IV là Kê Hàm đã xác nhận giấy mật hương của dân Giao Chỉ làm bằng gỗ trầm, thơm, màu trắng, có vân vảy cá, thả vào nước không nát. Thế kỷ IX, một học giả Trung Hoa khác là Vương Gia còn nói đến giấy trắc lý của người Giao Chỉ làm bằng rong rêu ngoài biển.

Đến kỷ nguyên Đại Việt, nghề làm giấy dó ở Thăng Long càng phát triển mạnh mẽ. Ở phía tây kinh thành Thăng Long có hẳn một xóm thợ thủ công chuyên nghề làm giấy. Trong số những báu vật mà vua Lý Cao Tông (1176 - 1210) gửi tặng triều đình nhà Tống thì ngoài những thứ như ngà voi, sừng tê, vàng, ngọc, lụa,… còn có cả giấy dó Thăng Long nổi tiếng nữa.

Sang đầu thế kỷ XV, Nguyễn Trãi viết Dư địa chí từng nhắc đến phường làm giấy Yên Thái. Cảnh giã bột nhộn nhịp ở đây còn sống mãi trong câu ca dao cổ: … Mịt mù khói tỏa ngàn sương/ Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Và cô gái làm giấy tuy vất vả nhưng vẫn rất duyên dáng và đầy tự hào về nghề nghiệp của mình: Người ta bán vạn buôn ngàn,/ Em đây làm giấy cơ hàn vẫn tươi./ Dám xin ai đó chớ cười,/ Vì em làm giấy cho người viết thơ. Phường Yên Thái mà Nguyễn Trãi nhắc tới, gọi nôm là vùng Kẻ Bưởi gồm bốn làng chuyên làm giấy là Yên Thái, Hồ Khẩu, Đông Xã và Thọ Thôn. Gần đó có làng Nghĩa Đô cũng làm giấy, còn gọi là làng Nghè. Làng này có nghề làm “ giấy sắc vua” tức loại giấy “Lệnh” cho triều đình viết các sắc chỉ. Đó là loại giấy quý, có hoa văn chìm hình rồng vờn mây.

Giấy dó có nhiều loại khác nhau, mỗi loại có một sắc thái riêng, do nguyên liệu được lựa chọn phân loại và mức độ tinh chế để dùng vào những việc khác nhau. Cao cấp là giấy dó lụa để in tranh và sách quý. Giấy bản để in tài lieeujt hông thường, loại giấy này phổ biến hơn cả. Có loại dai, mỏng, dễ cháy để làm ngòi pháo. Có loại mịn, mỏng, dai, trắng làm Giấy cốt giấy nến, giấy đánh máy. Loại giấy moi thô nháp dùng để gói hàng. Giấy bản nhuộm còn dùng để dán quạt và làm hàng mã. Giấy xề làm bằng nguyên liệu tận dụng. Các loại giấy trên được bán buôn tại chỗ, sau tỏa đi khắp nơi. Trong nội thành trước đây có phố Hàng Giấy chuyên bán đủ các thứ giấy của vùng Bưởi sản xuất. Giấy dó vùng Bưởi đã từng thỏa mãn nhu cầu giấy của cả nước, đặc biệt là các văn nhân tài tử ở xứ Bắc, xứ Đông, xứ Nam, qua xứ Nghệ, xứ Quảng vào tận lục tỉnh phía Nam.

Ngày nay, những người thợ giấy vùng Bưởi đã cơ giới hóa một số công đoạn sản xuất, hàng năm sản xuất giấy dó lụa, giấy nến, giấy gói hoa quả, giấy bản, giấy moi… Nhưng quan trọng và đầy tính nghệ thuật vẫn là giấy dó lụa rất Việt Nam để in tranh Tết dân gian, in các tác phẩm sách đặc biệt…

 

Trần Duy tổng hợp

Tên đăng nhập
Mật khẩu
Tên truy cập (*)
Mật khẩu (*)
Xác nhận mật khẩu (*)
Email (*)
Họ và tên
Số điện thoại
Địa chỉ
Mã xác nhận (*)