Xuyên suốt tập sách là mạch cảm xúc bảng lảng buồn. Buồn trong trẻo, không hề bi lụy. Một nét buồn thánh thiện, trách nhiệm. Đấy là nỗi buồn vì thấy cuộc sống hiện tại, đời sống vật chất thì đầy đủ hơn, nhưng tình yêu thương của con người như đi vào ngõ cụt (Dấu ngõ). Con cái làm ăn giàu có hơn, xây được nhà cao cửa rộng, nhưng lại muốn tống bố mẹ già vào trại dưỡng lão cho nhẹ gánh (Tìm nơi sống gửi thác về). Con người đi lễ chùa ngày một đông, nhưng họ chỉ mải cầu tài cầu lộc mà không biết cầu bớt lòng tham (Hồ Tây có năm ngôi chùa cổ). Nam nữ trẻ yêu nhau, nay thành mốt rủ nhau lên cầu Long Biên để khóa tình yêu mãi bền vững. Những chiếc khóa tình yêu như những chiếc khuy áo trên cây cầu ngày một nhiều, nhưng những cuộc ly hôn lại bùng nổ nhiều hơn (Cây cầu và những chiếc đinh khuy)...
Nhiều cảnh ngộ trong tập sách dễ làm người đọc ứa nước mắt. Những nhân vật, dù tác giả phác họa đôi dòng, cũng đủ gây ấn tượng. Cậu Túc làm nghề cắt tóc, thương người, hay giúp người trong ngõ nhỏ. Cụ Vớt một mình sống bên bến Gót, lặng lẽ làm phúc đi cứu vớt nhiều người chết đuối. Chị Xuân gày guộc lên nghĩa trang Quảng Trị thăm mộ người chồng chưa cưới, nước mắt đục trên khuy áo ngực. Mẹ Trần ngày ngày lầm lũi quét lá rụng ở sân sau chùa, giấu kín bao nỗi niềm, nén lòng gửi con người khác nuôi dùm, để đứa trẻ sống với "tuổi thơ ngơ ngác và chua xót"...
"Tiếng dẻ cùi phía cây cơm vàng " có nhiều trang viết về thiên nhiên đẹp, tinh tế. Thiên nhiên ở đây như cũng có khoảng riêng. Đó là hoa cúc chi, hoa mộc, hoa dã quỳ, là hương đốt đồng có vị thơm hạt thóc cháy dở, là cây sến, cây tếch, cây cơm vàng, là vạt rêu trơn trượt bên sườn núi hoang vắng. Tập sách như cuốn nhật ký hành trình của người cầm bút dám dấn thân vào cuộc sống. Người đọc nhận được nhiều nỗi niềm lo lắng, thắc thỏm của tác giả trước cuộc sống đang nhiều biến động. Trong một trang viết luận về đồng tiền, chị có mượn lời nhà văn Nguyễn Khải "Càng ít sờ mó tới tiền càng tốt. Nó có độc đấy...". Nhưng nhìn ra mặt trái của đồng tiền, nhận ra một xã hội đang có nguy cơ thực dụng, vật chất hóa, rồi chị cũng biện lý: "Bàn tay ai cũng hơn một lần chạm vào và cầm tiền tiêu...Tiêu thời gian đã khó, tiêu tiền còn khó lắm thay". Trước một thực tế xô bồ, gấp gáp, đảo điên, tác giả vẫn giữ được lòng tin và nhắc nhở chính mình: "Chỉ sợ mình sống không ra sao, chứ lòng mình lành ở đâu cũng gặp người hiền" (Nghĩ chậm lại).
Mấy năm gần đây, Hoàng Việt Hằng vẫn đều đặn cho ra đời các tác phẩm mới. Người đọc dễ nhận ra nỗi quan tâm của chị trên mỗi trang viết. Chị biết vượt qua những nỗi buồn nhỏ bé, vụn vặt đời thường của chính mình để đồng cảm, hòa nhập cùng bao nỗi vui buồn của cuộc sống, của bao người lao động vất vả không mấy khi được hạnh phúc mỉm cười. Chị thường chọn cho mình chỗ đứng cùng những con người lầm lũi và nhiều thua thiệt đó. Chị biết chọn hướng đi thực tế của mình theo lối riêng, khai thác và chiêm nghiệm thực tế theo hướng riêng. Vì thế, trang viết của chị nhiều nỗi niềm chân thành.
Tản văn, vốn là lát cắt của cảm xúc. Có lát cắt dứt khoát, có lát cắt chùng chình do dự. Ở thể loại này, dễ phơi hồn cốt người viết. Người viết không chắc tay, dễ bị các chi tiết báo chí lấn lướt. Trong tập, có những bài viết, tác giả tham chi tiết báo chí để loãng mạch văn. Một số hình tượng: vịn vào hoa, tựa vào rêu, đèn một mình hắt bóng... đôi chỗ lặp đi lặp lại. Tuy vậy, cảm xúc thơ và nỗi niềm thân phận vẫn tạo thế mạnh trong tản văn Hoàng Việt Hằng. "Tiếng dẻ cùi phía cây cơm vàng" là tập tản văn thứ ba của chị
